Kinh tế thị trường là gì? (9): Chính phủ trong nền kinh tế thị trường – phần2
Thu nhập và phúc lợi xã hội
Trong một nền kinh tế thị trường, một số người không có các khả năng hoặc các nguồn lực khác để kiếm sống. Trái lại, một số khác lại được hưởng nhiều lợi lộc vì thừa hưởng tài sản hay có tài năng, hoặc do họ biết kết hợp với gia đình và bạn bè về mặt kinh doanh, chính trị hay xã hội.
Những người đề xướng việc tái phân phối mở rộng cho rằng vai trò này của chính phủ khi làm như vậy là nhằm hạn chế việc tập trung tài sản và duy trì sự phân chia quyền lực kinh tế rộng rãi giữa các hộ gia đình, cũng như luật chống độc quyền được thiết kế để duy trì cạnh tranh và phân chia quyền lực và các nguồn lực rộng rãi hơn giữa các nhà sản xuất. Còn những người chống lại các chương trình tái phân phối lớn lại phản đối rằng thuế gia tăng đối với các gia đình có thu nhập cao sẽ làm giảm động cơ làm việc, tích lũy và đầu tư của các nhóm này, và như vậy là làm tổn hại đến toàn bộ nền kinh tế.
Những tranh luận về tái phân phối thu nhập đều dựa trên quan điểm cơ bản của con người về thế nào là công bằng và hợp lý. Và trong lĩnh vực này, cả các nhà kinh tế học lẫn các chuyên gia khác nghiên cứu về vấn đề này đều chưa có lập trường nào đặc biệt.
Tất cả những gì mà họ có thể làm là tập hợp tài liệu về những gì đã xảy ra đối với việc phân phối thu nhập và tài sản qua thời gian trong các hệ thống kinh tế khác nhau, và sử dụng các thông tin đó để cố gắng xác định các chính sách khác nhau ảnh hưởng như thế nào đến các biến số như mức sản lượng, mức tích lũy và đầu tư quốc gia.
Trong thế kỷ này, mọi người đã dần dần cùng nhất trí rằng chính phủ trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, vì lòng trắc ẩn và tính công bằng, nên có trách nhiệm hỗ trợ cho các gia đình nghèo túng nhất trong nước và giúp họ cố gắng thoát khỏi cuộc sống đói nghèo. Chính phủ trong tất cả các nền kinh tế thị trường thực sự đều hỗ trợ cho những người thất nghiệp, chăm sóc y tế cho người nghèo và trợ cấp hưu trí cho người nghỉ hưu. Toàn bộ các chương trình này tạo thành cái gọi là “mạng lưới an sinh xã hội”.
Trong 40 năm qua, các chương trình xã hội này đã chiếm một phần ngày càng tăng trong chi tiêu của chính phủ và các chương trình thuế tại hầu hết các nước công nghiệp hóa. Do vậy ngày nay người ta không còn tranh luận xem các chương trình này có nên tồn tại hay không, mà là về mức độ mở rộng của chúng và cần phải quản lý chương trình tái phân phối thu nhập như thế nào để vẫn giữ được những động cơ cá nhân kích thích con người làm việc và tích lũy.
Các chính sách tài khóa và tiền tệ của chính phủ
Chính phủ trong nền kinh tế thị trường đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng các điều kiện kinh tế để thị trường của các công ty tư nhân có thể hoạt động một cách hiệu quả nhất.
Một trong những vai trò này là tạo ra một đồng tiền ổn định được chấp nhận rộng rãi để hạn chế nhu cầu sử dụng các hệ thống trao đổi nặng nề và không hiệu quả khác, và duy trì giá trị của đồng tiền đó thông qua các chính sách hạn chế lạm phát (tức là tình trạng tăng giá của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ).
Trong lịch sử, các nền kinh tế thị trường đều từng trải qua các thời kỳ mà mức giá tăng nhanh, hay có lúc là mức thất nghiệp cao, hoặc có thời kỳ cả mức lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp đều cao.
May mắn là nhiều thời kỳ như vậy chỉ tương đối nhẹ và ngắn hạn, chỉ kéo dài một năm hoặc ngắn hơn. Chỉ có số thời kỳ dai dẳng hơn và nặng nề hơn nhiều, ví dụ như siêu lạm phát của Đức vào những năm 1920 và thất nghiệp toàn cầu những năm 1930 được đơn giản biết đến là thời kỳ Đại suy thoái.
Chỉ trong thập kỷ này các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính sách của chính phủ mới xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn về các chính sách ổn định hóa – được gọi là các chính sách tài khóa và tiền tệ – là các chính sách mà các chính phủ có thể sử dụng để cố gắng giảm bớt (hoặc lý tưởng là xóa bỏ) các giai đoạn như vậy.
Chính sách tài khóa sử dụng chi tiêu chính phủ và các chương trình thuế để kích thích nền kinh tế quốc gia trong thời gian thất nghiệp cao và lạm phát thấp, hoặc để xoa dịu nền kinh tế trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp. Để kích thích toàn bộ mức tiêu thụ, sản xuất và việc làm, chính phủ phải tự chi tiêu nhiều hơn và giảm bớt thuế, thậm chí cả khi nó phải chịu thâm hụt. (Sau đó, vào một thời điểm nào đó trong tương lai, chính phủ sẽ phải thực hiện một khoản thặng dư bù đắp).
Để xoa dịu một nền kinh tế quá sôi động – một nền kinh tế trong đó mọi người đang làm việc đều muốn công việc khác, và giá cả và chi tiêu tăng lên nhanh chóng – chính phủ có một số lựa chọn nhằm giữ giá không vọt lên quá cao. Chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu, tăng thuế, hoặc cả hai nhằm giảm tổng chi tiêu và mức sản lượng quốc gia.
Chính sách tiền tệ liên quan đến các thay đổi trong nguồn cung tiền quốc gia và tính sẵn có của tín dụng. Để tăng chi tiêu trong thời gian thất nghiệp cao và lạm phát thấp, các nhà hoạch định chính sách tăng nguồn cung tiền để giảm tỉ lệ lãi suất (tức là giảm giá tiền), khiến cho các ngân hàng có thể cho vay dễ dàng hơn. Điều này khuyến khích người ta tiêu dùng nhiều hơn vì người dân có trong tay nhiều tiền hơn. Tỉ lệ lãi suất thấp cũng kích thích các doanh nghiệp chi tiêu cho đầu tư để mở rộng kinh doanh và thuê nhiều nhân công hơn.
Ngược lại, trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp, các nhà hoạch định chính sách có thể xoa dịu nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất và từ đó giảm nguồn cung tiền và tính sẵn có của tín dụng. Do đó, nền kinh tế sẽ có ít tiền chi tiêu hơn và mức lãi suất cao hơn, cả chi tiêu và giá cả đều sẽ có xu hướng giảm xuống, hoặc tối thiểu là không tăng nhanh. Kết quả là cả sản lượng đầu ra và việc làm đều có xu hướng thu hẹp lại.
Trước những năm 1960, các chính sách tài khóa và tiền tệ đều không được sử dụng rộng rãi để ổn định các chu kỳ kinh doanh lên và xuống của thương mại quốc gia. Ngày nay, ngoại trừ một số trường hợp có các thảm họa thiên nhiên và nhân tạo – như chiến tranh, lũ lụt, động đất và hạn hán – các chính sách ổn định này đều có thể được sử dụng để tránh các thời kỳ thất nghiệp và lạm phát nặng nề. Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách này không chắc chắn trong trường hợp biến động kinh tế ngắn và trung hạn hoặc trong hoàn cảnh cả lạm phát và thất nghiệp đều tăng.
Có một số nguyên nhân giải thích cho sự bất ổn này, trong đó có thời gian cần thiết để nhận biết thực sự vấn đề là gì, để xây dựng các kết hợp chính sách thích hợp nhằm giải quyết vấn đề, và cuối cùng là thời gian chờ đợi các chính sách này mang lại kết quả. Một nguy cơ rất thực là có thể trước khi các chính sách của chính phủ có hiệu lực thì vấn đề ban đầu đã tự điều chỉnh hoặc chuyển hoàn toàn sang hướng khác. Trong trường hợp đó các chính sách ổn định hóa có thể không cần thiết hoặc thậm chí phản tác dụng.
Tuy nhiên, khi cả thất nghiệp và lạm phát đồng thời gia tăng, chính phủ phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nguyên nhân là các chính sách tài khóa và tiền tệ được thiết kế chỉ để điều chỉnh mức tổng chi tiêu của quốc gia chứ không phải để giải quyết với mức giảm tương đối đột ngột của cung khiến lạm phát và thất nghiệp xuất hiện cùng lúc. Khi nào thì một tình thế như vậy có thể phát sinh? Một trường hợp xuất hiện vào những năm 1970 khi cấm vận xuất khẩu dầu lửa của các nước sản xuất dầu mỏ lớn khiến giá cả tăng vọt ở tất cả các nền kinh tế của các quốc gia công nghiệp hóa. Mức giảm cung như vậy khiến mức giá tăng lên trong khi lại giảm mức sản lượng và việc làm.
Để giải quyết các cú sốc cung như vậy đối với nền kinh tế quốc gia, chính phủ có thể cố gắng tăng động cơ sản xuất, tích lũy và đầu tư của người dân, tăng mức cạnh tranh hiệu quả trong nước bằng cách giảm độc quyền, hoặc xóa bỏ tình trạng tắc nghẽn của các nguồn lực chủ yếu, có thể đó là các hàng hóa như dầu hoặc các loại hình lao động có kỹ năng nhất định như kỹ sư. Ví dụ, trong trường hợp hạn chế xuất khẩu dầu mỏ, một quốc gia có thể kích thích sản xuất dầu lửa trong nước, đưa ra những khuyến khích nhằm giữ gìn và sử dụng hiệu quả năng lượng lớn hơn nữa, và đầu tư vào các nguồn năng lượng thay thế khác. Tuy nhiên, hầu hết các chính sách gọi là trọng cung này có xu hướng là có tác động rất chậm, phải mất nhiều năm chứ không chỉ là nhiều tháng.
Trong khi chưa tìm ra phương thuốc thần để loại trừ vĩnh viễn nạn lạm phát và thất nghiệp trong các nền kinh tế thị trường, chính phủ có thể có hiệu quả trong việc giảm nhẹ các tác động của những vấn đề này.
Hầu hết các nhà kinh tế học đều nhận thức được vai trò quan trọng của chính phủ trong việc đấu tranh chống thất nghiệp và lạm phát bằng các chính sách ổn định hóa dài hạn, bao gồm mức tăng trưởng ổn định chung trong lượng tiền tệ, các chương trình chi tiêu của chính phủ có thể tự động tăng lên khi nền kinh tế tăng trưởng chậm và giảm xuống khi nền kinh tế phát triển (ví dụ như các trợ cấp dành cho người thất nghiệp), và lịch trình thuế có thể củng cố cho các chương trình chi tiêu tự động bằng cách đánh thuế ít hơn vào người tiêu dùng và công nhân khi thu nhập của họ giảm xuống và nhiều hơn khi thu nhập của họ tăng lên.
Các chính sách tài khóa và tiền tệ ngắn hạn do các nhà hoạch định chính sách áp dụng nhằm giải quyết các trường hợp gia tăng tạm thời nhưng trầm trọng số người thất nghiệp hay mức lạm phát được sử dụng trong nhiều nền kinh tế thị trường, mặc dù các nhà kinh tế không đồng nhất ý kiến về thời gian và tính hiệu quả của các chính sách.
Cuối cùng, cần phải nhận thấy rằng trong bất cứ hệ thống kinh tế nào, trong đó có cả nền kinh tế thị trường, một vài vấn đề tồn tại có thể không bao giờ được giải quyết hoàn toàn hoặc vĩnh viễn. Các vấn đề này cần phải được nghiên cứu một cách thực tế dựa trên từng trường hợp cụ thể, đồng thời xem xét cẩn thận đến các lực lượng kinh tế và chính trị ảnh hưởng đến chúng. Tại điểm này, hệ thống chính trị dân chủ – một hệ thống khuyến khích các cuộc thảo luận mở và chấp nhận những ý kiến trái ngược về các vấn đề xã hội – có thể đóng góp một cách hiệu quả nhất cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường tự do. Như các nhà phân tích năng lượng Daniel Yergin và Joseph Stanislaw nói, “Rốt cuộc là không có thị trường nào mà không có sự can thiệp của chính phủ để đặt ra những luật lệ và xây dựng các bối cảnh”.
Kiểm soát ô nhiễm dựa trên thị trường
Vấn đề kiểm soát ô nhiễm là một ví dụ nổi bật về cách chính phủ trong một nền kinh tế thị trường có thể khai thác cơ chế cung-cầu để giải quyết một vấn đề quan trọng mà toàn bộ xã hội phải đương đầu.
Khi đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí, nước hoặc đất đai, chính phủ có một số lựa chọn để cân nhắc nhằm cân bằng giữa nhu cầu có một môi trường sạch hơn với các chi phí kinh tế của việc làm sạch môi trường.
Trường hợp đầu tiên, giả sử người ta phát hiện ra một chất ô nhiễm nhất định rất độc hại và không thể khử độc được bằng cách áp dụng các quá trình sản xuất hoặc bảo vệ mới. Trong điều kiện này, chính phủ có thể hành động đúng đắn khi ban hành các quy định trực tiếp đòi hỏi phải loại bỏ hoàn toàn hoặc giảm mạnh lượng chất thải sao cho nó không còn là mối đe dọa đối với sức khỏe con người hoặc môi trường nữa. Tuy nhiên, một chương trình như vậy đòi hỏi chi phí xã hội rất cao.
Đối với các chất ít nguy hiểm hơn, mặc dù mức độ ô nhiễm sẽ được cắt giảm nhưng việc triệt bỏ hoàn toàn có thể khiến phát sinh mức chi phí cao không hợp lý dưới dạng mất mát sản xuất, tiêu dùng và việc làm. Trong hoàn cảnh này, cách làm hiệu quả hơn là đánh thuế đối với việc gây ô nhiễm thay vì đòi hỏi giảm ô nhiễm cụ thể ở tất cả các địa điểm sản xuất.
Lý do đơn giản là chi phí làm sạch môi trường sẽ biến đổi rất lớn tùy theo các địa điểm sản xuất khác nhau và các công ty khác nhau. Bằng cách đánh thuế những người gây ô nhiễm, chính phủ sẽ khiến các hãng có khả năng giảm thải ô nhiễm với chi phí tương đối thấp sẽ thực hiện điều đó và do vậy họ sẽ không phải trả thuế ô nhiễm. Những hãng nào thấy việc giảm bớt ô nhiễm sẽ quá tốn kém (thường là những hãng có nhà máy và trang thiết bị cũ kỹ) sẽ thấy hợp lý hơn khi chọn cách tiếp tục gây ô nhiễm và trả thuế cho những gì họ thải ra. Chính phủ cũng có thể có ảnh hưởng đến các thay đổi này bằng cách khuyến khích người tiêu dùng sử dụng những sản phẩm không gây ô nhiễm. Hỗ trợ thuế cho những người mua các phương tiện kết hợp sử dụng gas và điện và các hệ thống lò sưởi nhà riêng sử dụng năng lượng mặt trời chỉ là hai ví dụ ở Hoa Kỳ. Có một số sáng kiến khác đang được triển khai ở Mỹ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp và các nhà máy giảm phế thải một cách tự nguyện.
Có lẽ cách thức tiếp cận sáng tạo nhất đối với thách thức giảm ô nhiễm lại hoàn toàn không liên quan đến chính phủ mà nằm trong chính thị trường. Những chương trình được gọi là “cap and trade” (mua bán hạn ngạch ô nhiễm) đã được chứng minh là rất thành công ở Mỹ, tạo ra mức giảm rất đáng kể các chất ô nhiễm như điôxit sunphua (SO2, một thành phần tạo nên mưa axít). Theo hệ thống này, Chính phủ chỉ phải xác định tổng mức ô nhiễm cho phép ở từng khu vực, sau đó bán đủ giấy phép chỉ trong mức phế thải cho phép. Bất cứ kế hoạch thuế nào cũng trở nên không cần thiết. Những giấy phép này có thể được trao đổi với giá cả tự do lên xuống phản ánh các điều kiện kinh tế và môi trường khác nhau. Cơ quan Bảo vệ Môi trường, hoạt động theo hướng dẫn quy định của Chương trình Mưa Axít, đã đặt giới hạn cho việc giảm phóng thải chất SO2. Đối với những công ty có thể giảm phế thải đến mức giới hạn và thấp hơn thì sẽ được “thưởng hạn ngạch ô nhiễm”. Các công ty này sau đó có thể bán hạn ngạch thưởng này cho các công ty khác không có đủ khả năng thực hiện mức giảm như vậy. Kết quả là việc phóng thải chất SO2 ở Mỹ đã giảm hơn 6,5 triệu tấn kể từ năm 1980 mặc dù vẫn còn khoảng hai triệu đô-la Mỹ dưới dạng thưởng hạn ngạch SO2 trên thị trường. Một lợi ích tương đương là chi phí cho các ngành công nghiệp thực hiện chương trình này đã giảm thấp hơn mức dự tính ban đầu của Chính phủ.
Tuy nhiên hệ thống hạn ngạch này vẫn phải phụ thuộc vào sự can thiệp của Chính phủ. Hiện tại thế hệ tiếp theo của các giải pháp dựa trên thị trường đã bắt đầu – một hệ thống “cap and trade” tự nguyện nhằm giải quyết vấn đề của sáu “khí gas nhà kính” như điôxit cacbon (CO2). Thị trường này đặt trụ sở tại Chicago và do 14 công ty đầu ngành của Mỹ thành lập như Ford Motor và Motorola. Những công ty này thỏa thuận sẽ tự nguyện giảm phế thải và bắt đầu quá trình trao đổi thưởng hạn ngạch. Nói về động cơ của Chương trình Trao đổi Khí hậu Chicago, Tổng Giám đốc Điều hành Richard Sandor cho rằng – “người ta ngày càng mong muốn thị trường cho phép họ được giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường… tất cả chúng tôi đều tin rằng sử dụng hiệu quả năng lượng là rất tốt cho kinh doanh”.
Phân phối thu nhập và huy động vốn
Tại tất cả các quốc gia công nghiệp có nền kinh tế thị trường như Hoa Kỳ, nguyên nhân cơ bản của sự chênh lệch trong thu nhập hàng năm của các gia đình là sự chênh lệch về lương và tiền công. Khoảng ba phần tư mọi thu nhập là từ lương và tiền công – một phần tư còn lại được phân chia giữa các khoản cho vay, lợi nhuận và các khoản thanh toán lợi tức.
Mô hình phân phối thu nhập tổng thể vẫn ổn định trong hầu hết các nền kinh tế thị trường kể từ cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, ở Mỹ, 20% các gia đình có thu nhập cao nhất nhận được khoảng 49% tổng thu nhập của nền kinh tế, 20% các gia đình có thu nhập cao thứ hai nhận được khoảng 23%, còn 20% các gia đình trung lưu nhận khoảng 15%, còn lại 20% các gia đình có thu nhập gần thấp nhất chiếm 8% thu nhập và 20% gia đình có thu nhập thấp nhất chỉ chiếm 3% tổng thu nhập của quốc gia.
Các con số này không phản ánh được một thực tế là những người có thu nhập cao phải trả thuế cao hơn những người có thu nhập thấp, hoặc rất nhiều các gia đình có thu nhập thấp được hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ của chính phủ như phiếu lương thực và trợ cấp thuê nhà. Việc điều chỉnh sự chênh lệch này sẽ tăng phần được hưởng trong tổng thu nhập quốc gia cho 20% các gia đình nghèo nhất lên khoảng 5% và giảm phần hưởng trong tổng thu nhập của các gia đình có thu nhập cao nhất xuống khoảng 46%. Nhưng đây vẫn là một mức chênh lệch rất lớn về thu nhập và nhiều người vẫn thắc mắc vì sao lại có điều này.
Còn một số lý do để giải thích sự chênh lệch về thu nhập này của các gia đình ngoài sự khác biệt về lương và tiền công cơ bản như đã nói ở trên và giải thích vì sao có sự thay đổi lên xuống theo thời gian trong thu nhập của các gia đình khác nhau. Ví dụ, các công nhân vừa mới gia nhập thị trường lao động (điển hình là những công nhân trẻ ít kinh nghiệm làm việc) và các công nhân già hơn đã nghỉ hưu hoặc chỉ nhận các công việc bán thời gian thường là đại diện thường xuyên của nhóm các gia đình có thu nhập thấp nhất, và điều này không gây nhiều ngạc nhiên. Hầu hết các công nhân – và đặc biệt là những người có học vấn và được đào tạo cao hơn – có thu nhập tăng hàng năm theo nghề nghiệp của họ. Những công nhân khác đôi khi bị giảm lương hoặc tiền công tạm thời khi họ tạm nghỉ việc ngắn hạn, bị ốm đau hoặc là thương tích hay các lý do khác.
Vì tất cả những lý do này, và mặc dù có sự ổn định cơ bản trong việc phân phối thu nhập nói chung, vẫn tồn tại một cơ hội lớn trong việc huy động vốn trong nền kinh tế thị trường. Điều này có nghĩa là chúng ta luôn nhìn thấy các gia đình tăng hoặc giảm các khoản thu nhập trên của họ qua từng năm. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy chỉ trong vòng bảy năm, hơn một nửa số gia đình vốn từng có thu nhập nằm trong số 20% các gia đình Mỹ có thu nhập cao nhất đã trượt xuống các thứ hạng thấp hơn, và 6% đã trượt xuống nằm trong số 20% gia đình có thu nhập hàng năm thấp nhất. Cũng trong bảy năm đó, gần một nửa (45%) các gia đình trước đây nằm trong số các gia đình có thu nhập thấp nhất đã chuyển lên các nhóm có thu nhập cao hơn; gần 4% trong số đó thậm chí đã nhập vào nhóm 20% các gia đình có thu nhập cao nhất.
Trong những thời kỳ dài hơn, người ta thấy rằng hầu hết con cái của những ông bố bà mẹ giàu có thường có mức thu nhập cao hơn trung bình, nhưng xét bình quân, mức thu nhập của họ sẽ gần như không cao bằng thu nhập của bố mẹ họ. Tương tự, hầu hết con cái của những người nghèo hơn thường có thu nhập trung bình thấp, nhưng không thấp hơn nhiều so với mức trung bình thu nhập của bố mẹ họ. Qua ba thế hệ, tức là nói về thế hệ cháu của những người giàu hoặc nghèo hôm nay, hầu hết tất cả các lợi thế hoặc bất lợi về thu nhập của họ đã biến mất. Kết quả này chắc chắn không đúng với tất cả các gia đình giàu hoặc nghèo, nhưng đúng với phần đông trong số họ.
Bằng chứng thống kê này đã chứng minh hai điều quan trọng: Một là, thị trường lao động và các yếu tố sản xuất khác là mở và linh hoạt đủ để đưa lại sự tự do và các cơ hội đáng kể cho hầu hết công nhân trong các nền kinh tế thị trường – thậm chí cho phần lớn những người có thu nhập thấp nhất trong một số năm. Tuy nhiên, điều thứ hai là mặc dù có các cơ hội này nhưng những bước thay đổi trong các nền kinh tế thị trường hiện nay nhanh đến nỗi một số công nhân bị tụt hậu, đòi hỏi các chương trình hỗ trợ và đào tạo được thiết kế cẩn thận để đưa họ trở lại thị trường lao động cạnh tranh hoặc ít nhất là giúp họ duy trì một mức sống tạm được.
Kể từ thập kỷ 1930 và cuộc Đại khủng hoảng, chính phủ ở tất cả các nền kinh tế thị trường lớn đã phản ứng với các thách thức này bằng cách đưa ra các chương trình hỗ trợ thu nhập mở rộng cho các gia đình có thu nhập thấp. Mức độ và hình thức của các hỗ trợ này vẫn còn là các vấn đề chính trị gây tranh luận ở hầu hết các quốc gia này. Nhưng hầu hết các bộ máy chính trị trong các nền kinh tế thị trường hiện nay đã thừa nhận yêu cầu có một “mạng lưới an toàn sinh” gồm các trợ cấp của chính phủ và các dịch vụ xã hội cơ bản để bảo vệ những gia đình nghèo nhất – và đặc biệt là trẻ em của các gia đình đó.
Mặc dù những chương trình này đã có tác dụng giảm bớt ảnh hưởng của đói nghèo nhưng chúng vẫn chưa thực sự thành công trong việc xóa hẳn nghèo đói. Do vậy những cuộc tranh luận về cách thức tốt nhất để giúp đỡ những người nghèo vẫn còn phải tiếp tục.
(Theo maxreading)
DienDan.Edu.Vn Cám ơn bạn đã quan tâm và rất vui vì bài viết đã đem lại thông tin hữu ích cho bạn.DienDan.Edu.Vn! là một website với tiêu chí chia sẻ thông tin,... Bạn có thể nhận xét, bổ sung hay yêu cầu hướng dẫn liên quan đến bài viết. Vậy nên đề nghị các bạn cũng không quảng cáo trong comment này ngoại trừ trong chính phần tên của bạn.Cám ơn.