Giới thiệu 3 tác giả:Ngô Tất Tố- Vũ Trọng Phụng- Nam Cao.
NGÔ TẤT TỐ ( 1894- 1954)
|
1. Giới thiệu về tác giả:
_ Gia đình Ngô Tất Tố.
_ Quê hương Ngô Tất Tố
_ Bản thân nhà văn
2. Ngô Tất Tố là nhà báo.
_ Xuất thân là cựu nho có vốn Hán học phong phú nhưng ông không phải là người bảo thủ. Ông phản đối lối chạy theo phong trào phục cổ do thực dân Pháp đề xướng.
_ Ông là người hiếu học luôn đọc sách tìm tòi, sáng tạo
_ Ngô Tất Tố chịu ảnh hưởng sâu sắc phong trào ái quốc thời Ðề Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
_ Lòng yêu nước của Ngô Tất Tố gắn liền với lòng yêu dân- những người nông dân lao động cần cù tốt bụng
_ Ngô Tất Tố nhanh chóng đứng trên lập trường dân chủ tố cáo những áp bức của bọn thực dân phong kiến. Với tư cách là một nhà báo, Ngô Tất Tố hết sức tung hoành trên trường ngôn luận, lên án tội ác của thực dân phong kiến và những thủ đoạn sâu mọt của bọn cường hào quan lại.
3. Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà phóng sự:
_ Phóng sự Việc làng gồm 17 chương: đây là một phóng sự về những hủ tục nặng nề ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng tám 1945. Phóng sự Việc làng mang nét đặc trưng của làng quê Ngô Tất Tố đó là nạn xôi thịt chức tước làm bao gia đình phải khánh gia bại sản, điêu đứng,chết chóc, tha thương cầu thực v.v…
_ Nghệ thuật Việc làng có khuynh hướng gần với lối viết truyện ngắn. Lối kể chuyện của tác giả linh hoạt. Có khi tác giả đi từ khái quát đến cụ thể. Có khi tác giả đi từ một hiện tượng, một nguyên nhân và khái quát lên vấn đề. Do vậy mà người đọc không thấy đơn điệu.
4. Ngô Tất Tố viết tiểu thuyết:
_ Tiểu thuyết Lều chõng: tác phẩm trình bày về chế độ khoa cử một cách tỉ mỉ.
_ Tiểu thuyết Tắt đèn: Tác giả tập trung vào vấn đề thuế má, một tai họa khủng khiếp của nông thôn.
+ Trong Tắt đèn xuất hiện loại thuế thân cực kì dã man. Thuế đánh vào đầu người đàn ông từ 18 tuổi trở lên.
+ Nhân vật chị Dậu xuất hiện lo chạy thuế thân cho chồng và em chồng. Tính cách của chị xuất hiện.
5. Nghệ thuật tiểu thuyết Tắt đèn.
_ Kết cấu tác phẩm: hợp lí chặt chẽ
_ Khắc họa thành công nhân vật điển hình hóa: mỗi hành động của chị Dậu như chạy vạy, khóc lóc, kêu gào, chịu đựng và vùng lên mạnh mẽ, đều diễn ra tự nhiên phù hợp với sự phát triển tâm lí của nhân vật
_ Nghệ thuật châm biếm thành công: cách húp canh, súc miệng của Nghị Quế, cách đi đứng của lão Chánh Tổng. Bộ râu hắc ín trên mép tên quan phủ Tư Ân v.v…
_ Khả năng phân tích tâm lí nhân vật
_ Văn viết của Ngô Tất Tố nói chung linh hoạt song vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều lối văn biền ngẫu: thằng bếp bưng cơm ra. Thằng nhỏ bê chậu nước vào (Tắt đèn-Ngô Tất Tố).
Tóm lại, Ngô Tất Tố là cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Ngô Tất Tố không chỉ là nhà viết tiểu thuyết, phóng sự ông còn là một nhà báo cự phách, một nhà khảo cứu dịch thuật có tài. Thành công của Ngô Tất Tố là thành công của quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh, của một nhà văn tự thấy phải hoạt động, phải xông pha, phải lăn lộn với dân chúng.
VŨ TRỌNG PHỤNG (1912- 1939)
|
1. Gia đình và cuộc đời tác giả:
_ Cha mất sớm, nhà nghèo nghèo gia truyền. Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học phải nghỉ, đi làm để đỡ gánh nặng cho mẹ.
_ Vũ Trọng Phụng viết báo lúc 18 tuổi. Từ 1930- 1939 ông viết cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể loại khác nhau. Ðặc biệt là thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Ông được tôn vinh là ông vua phóng sự đất Bắc.
_ Do làm việc quá sức, đời sống nghèo khổ, ông mắc bệnh lao, mất ngày 13/10/1939.
2. Những sáng tác của Vũ Trọng Phụng
_ Truyện ngắn
_ Tiểu thuyết.
_ Phóng sự.
_ Kí sự.
_ Kịch.
_ Dịch thuật.
3. Bộ mặt xã hội thực dân nửa phong kiến trong tác phẩm của Vũ Trọn Phụng
_ Xã hội nông thôn trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng: Giông tố, Vỡ đê.
_ Xã hội thành thị trong tác phẩm: Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ
4. Tính chất trào phúng trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng
_ Trào phúng là cái cười, tiếng cười mang ý nghĩa sâu xa, hàm ý châm biếm, mỉa mai, đôi lúc đả kích sâu cay.
_ Trào phúng bao hàm hai yếu tố: yếu tố phê phán và yếu tố hài hước. Hai yếu tố kết hợp với nhau trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
_ Tiếng cười được vang lên từ những thủ pháp nghệ thuật được sắp đặt theo chủ đích của tác giả. Sử dụng ngôn ngữ, cách xây dựng nhân vật, hoạt động của nhân vật. Tính chất trào phúng đạt đến sự thành công cả về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật
_ Tính chất trào phúng trong Số đỏ; Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần mặt trái tự nhiên.
Tóm lại, Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực xuất sắc. Vũ Trọng Phụng đã để lại những tác phẩm văn học như một di sản văn hóa. Tác phẩm của ông là một kho phong phú các thủ thuật trào phúng hài hước.
NAM CAO (1915-1951)
|
I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ :
1. Sinh năm 1915 trong một gia đình trung nông ở làng Ðại hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Nam Hà).
Gia đình Nam Cao sống cũng chật vật. Trong số anh em chỉ có Nam Cao được ăn học. Học hết phổ thông trung học vì ốm nên không thi đậu. Nam Cao theo người nhà vào Sài Gòn làm thư ký cho một cửa hiệu may. Sau trận ốm nặng, Nam Cao lại trở về làng. Ôn tập lại vốn học và thi đậu, nhưng vì sức khỏe yếu nên không có việc làm. Sau đó người làng mở trường tư ở Hà Nội, cần một chân dạy có bằng trung học, Nam Cao được mời dạy. Ðược ít lâu trường bị đóng cửa vì Nhật chiếm làm chổ nuôi ngựa. Nam Cao sống vất vả, khi viết văn, khi làm gia sư nhưng cũng không đủ sống. Thời kỳ này Nam Cao được giác ngộ Cách mạng và tham gia sinh hoạt tổ văn hóa cứu quốc 1943. Khi cơ sở văn hóa ở Hà Nội bị khủng bố, Nam Cao về làng tham gia phong trào Cách mạng ở địa phương. Tổng khởi nghĩa, Nam Cao tham gia cuộc đánh chiếm Phủ Lý Nhân và làm chủ tịch xã một thời gian, trước khi được điều lên công tác văn hóa, văn nghệ ở báo trung ương.
– Những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, cũng như buổi đầu đến với văn học, Nam Cao làm một số thơ lãng mạn và viết những truyện tình thơ mộng. Ơí thời kỳ này ngòi bút của Nam Cao dò dẫm tìm một lối đi, tâm hồn Nam Cao dần dần đổi thay, có được một cái nhìn đúng đắn cuộc sống.
Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn gió mát lành thơm tho thoảng qua từ những mái tóc, tà áo thiếu nữ, những cuộc hẹn hò, trang sức… Tất cả chất liệu ấy có lần đến với ngòi bút Nam Cao, mạng theo nhiều mơ ước xa xôi và những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh hưởng của sách báo lãng mạn. Nam Cao trong tuổi trẻ không khỏi có lúc
Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời
Nhưng Nam Cao chóng trở về với cuộc đời thực. Cái buồn thường sớm nhường chỗ cho những cái lo. Nỗi cơm áo, bệnh tật, công ăn việc làm, Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve “Nghệ thuật không thể là …”. Nam Cao tìm đến sự thật với tấm lòng yêu thương cuộc sống, những lớp người và những cảnh đời đau khổ. Với những rung động xót xa đến cháy lòng trước bao ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao muốn phơi bày sự thật của cuộc đời và của lòng người.
Nam Cao gần gũi và quen thuộc chốn đồng quê và những cảnh đời lầm than, đau khổ và chính cái làng quê ấy đã đi vào những trang viết rất chân thật sinh động của ông. Tiếp xúc và cọ xát với nhiều loại người, nhiều số phận khác nhau, Nam Cao đã từ cái bao quát chung để thấm thía và chiêm nhiệm cho thân phận tầng lớp và của riêng mình
Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm văn hóa cứu quốc do Ðảng lãnh đạo. Khi bị khủng bố gay gắt, Nam Cao về hẳn làng tham gia phong trào Việt minh ở địa phương. Sau ngày tổng khởi nghĩa nhà văn được bầu là chủ tịch xã ít lâu sau, Nam Cao được điều lên công tác ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký toà soạn báo Tiền phong, cơ quan của hội. Năm 1946 theo đoàn quân Nam tiến vào vùng nam trung bộ. Trở về, Nam Cao tiếp tục làm công tác thông tin tuyên truyền như viết tin, viết tài liệu, làm ca dao, xem sách. Thời gian này Nam Cao được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Tháng 11-1951 trên đường vào công tác vùng địch hậu liên khu Ba, Nam Cao bị một toán phục kích bắn chết gần bốt Hoàng đan, Ninh bình Nam Cao ngả xuống giữa lúc đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương chuyến đi đó nhà văn lấy tài liệu để hoàn chỉnh tác phẩm Làng.
2. Nam Cao là con người hiền lành trầm mặc nhút nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nhà văn rất khổ tâm về cái tật “hãi người” và “cái mặt không chơi được” (tên một truyện ngắn) của mình. Con người “Mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản khán mãnh liệt”.
Trước Cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ u uất, bất đắc chí. Ôúm yếu thất nghiệp Nam Cao sống lay lắt bằng nghề văn và dạy tư là hai cái nghề bạc bẽo khi đó.
Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần 10 năm viết văn trước Cách mạng. Nam Cao hầu như không có vị trí gì trên văn đàn đương thời. Hầu hết truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi bị vứt xó cho đến khi bản thảo bị thất lạc. Hiếm có một nhà văn có tài mà bước vào làng văn lại chật vật và bị đối xử bất công như Nam Cao.
Nam Cao luôn chất chứa trong lòng tâm sự của người nghệ sĩ “Tài cao phận thấp chí khí uất” (Tản Ðà) mà đó cũng là tâm trạng “Phản kháng mãnh liệt” của người trí thức tiến bộ với cái xã hội bóp nghẹt cuộc sống con người. Nam Cao không như kẻ khác do bất mãn cá nhân mà hằn học, thù nghét “cả giống người”. Con người bề ngoài có thể lạnh lùng đó bên trong là một tâm hồn chan chứa yêu thương.
3. Sự gắn bó cảm động với bà con dân quê là một tình cảm nổi bật trong con người Nam Cao. Nhà văn lớn lên trong sự đùm bọc của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt. Ðó là bà ngoại nhà văn góa chồng năm 22 tuổi, suốt đời vất vả cực nhọc nuôi con cháu. Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó là người vợ chịu thương chịu khó. Ðó là người dì nuôi đã bế ẵm nhà văn khi còn tấm bé. Hình ảnh những con người đó trở đi trở lại trong nhiều trang viết của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn hiện lên cái làng Ðại Hoàng thân thiết. Hình ảnh quê hương đã nâng đỡ nhà văn lúc bi quan bế tắc.
Là một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu xa. Nam Cao không phải không tiêm nhiễm nhiều cái tiêu cực. Nhưng cái đáng quí ở Nam Cao là tự mình đấu tranh nghiêm khắc để vượt mình, vượt khỏi cuôc sống tầm thường, nhỏ nhen, đê tiện, vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng.
4. Bước đầu sáng tác: con đường hiện thực đến với Nam Cao hiện thực và quan điểm sáng tác của Nam Cao
Ø Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có thơ, truyện cười, truyện ngắn, kịch vui… đăng báo từ năm 1938. Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng tiểu tư sản đương thời, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát li. Thơ của Nam Cao nặng về nỗi buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao chú ý đến cảnh ngộ đau khổ trong xã hội, kiếm ăn bằng việc mua vui cho người khác. Một cô đào hát, chết gục giữa tiếng hát của mình trên sân khấu (Cảnh cuối cùng). Một diễn viên xiếc nghèo bị tình phụ đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (Hai xác chết). Hai chú bé thổi kèn Si-ca-gô và nhào lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ).
Thời kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội cũng đã rõ nét ở Nam Cao như trong truyện ngắn “Nghèo”, “Ðui mù”, “Một bà hào hiệp”. Chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng định ở truyện ngắn “Chí Phèo”
Ø Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam Cao là người có trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình. Suốt cuộc đời lao động văn chương nhà văn luôn suy nghĩ “Sống và viết” Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối phù phiếm của thứ văn thơ “thơm tho” đó. Nam Cao đã kiên quyết đoạn tuyệt với nó và tiến đến chủ nghĩa hiện thực. Với Nam Cao từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn tức là từ bỏ con đường thoát li hưởng lạc ích kỷ, phản bội nhân dân lao động; lựa chọn chủ nghĩa hiện thực có nghĩa là trở về chỗ đứng của mình trong những người nghèo khổ ruột thịt. Trong “Trăng sáng” Nam Cao đòi nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp sống lầm than “Chứ không phải là món giải trí của những người đàn bà nhàn nhã ngã mình trên những chiếc ghế xích đu nhún nhảy” (Trăng sáng) là một tuyên ngôn cảm động, đanh thép của quan điểm Nghệ thuật vị nhân sinh” cũng là lời tâm niệm chân thành của nhà văn tiểu tư sản nguyện trở về, chung thủy với quần chúng nghèo khổ.
Nam Cao chế giễu cay độc những nhà tiểu thuyết “óc đầm đìa thuốc phiện”, “suốt đời nhìn trăng” nhân vật lý tưởng của họ là những cô gái nhí nhảnh, lẳng lơ và rất giả dối, độc ác.
Là một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ thuật. Nam Cao tự nhủ phải sống cho đúng thì viết mới đúng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lăng đất nước ta, Nam Cao muốn “vứt cả bút đi để cầm súng”, nhà văn cảm thấy “Nếu như chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về ” (Bút ký Ðường Vô Nam -1946). Với Nam Cao nghệ thuật phải hiện thực cả trong nội dung và hình thức. Tiểu thuyết của Nam Cao hình như không có sự hư cấu. Vì vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh ngạc về tính chân thực, điều đó khiến cho tác phẩm của nhà văn có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Về phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm người cầm bút, Nam Cao phê phán nghiêm khắc sự cẩu thả trong nghề văn coi đó là sự “bất lương” đến “đê tiện” Nam Cao thấy hết trách nhiệm của người cầm bút với ý thức trách nhiệm đầy đủ trước xã hội, phải nổ lực để “hiểu biết, khám phá, sáng tạo”
II. ÐỀ TÀI TIỂU TƯ SẢN
1. Truyện ngắn
Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám tập trung viết về tầng lớp tiểu tư sản nghèo .
Ø Hầu hết các nhân vật giống nhau về cảính ngộ, tính cách… ít nhiều họ đều là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học sinh thất nghiệp, những viên chức hạngbét, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí … họ “phải bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết” (Quên điều độ ).
Nhân vật chính trong “Xem bói” đó là một thanh niên thất nghiệp “ăn cháo loãng cầm hơi, tối đến vợ chồng cắn rứt nhau, những ngày vác đơn khúm núm đi xin việc hết công sở này đến công sở khác, đã từng bị những ông chủ hảng đuổi khỏi cửa như đuổi một kẻ ăn mày”. Những lo lắng cơm áo hằng ngày đè nặng cuộc đời họ, giày vò tâm trí họ, tạo cho họ cái tâm trí xo ro thảm hại, cái nhịp sống điều độ tội nghiệp.
– Cả cuộc đời họ không một chút lạc thú, một tiếng cười vui, có chăng là tiếng cười thiểu não trong truyện “Cười”. Tiếng cười đó còn khổ hơn cả giọt nước mắt của Ðiền trong “Nước mắt” khi anh cảm thấy mình khổ quá “Khổ như một con chó vậy”
Ø Nam Cao viết về những nổi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của họ.
– Họ là những nhà văn mang tên Hộ, Ðiền, Du, có khi được gọi làhắn và xưng là tôi. Họ thường ôm ấp một hoài bảo về sự nghiệp tinh thần. Họ đã từng sẳn sàng hiến cả đời mình cho nghề văn. Với sự say mê, Hộü không còn giới hạn nào trong mơ ước: trong một phút cao hứng anh tuyên bố, tác phẩm của anh sẽ đoạt giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu.
– Tác phẩm của họ có tính nhân đạo. Theo Hộ, tác phẩm có giá trị phải là “tác phẩm chung cho cả loài người. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái , sự công bình… nó làm cho con người gần người hơn “
– Ở họ giữa ước mơ và hiện thực mâu thuẫn nhau: hàng ngày chuyện áo cơm ghì sát đất . Lẽ ra ngòi bút của họ phải viết về một cái gì đó to lớn, góp phần xây dựng nhân loại thì giờ đây, để kiếm tiền nuôi vợ con đã phải viết toàn những cái vô vị nhạt phèo, gợi tình cảm rất nhẹ, rất nông. Họ đau đớn nhận ra rằng mình là một con người thừa.
– Họ rơi vào mâu thuẩn giữa tình thương và sự nghiệp: họ định thoát li vợ con để rảnh rang theo đuổi văn chương. Nhưng Hộ không thể ích kỷ tàn nhẫn như vậy. Hộ đã hy sinh sự nghiệp để giữ lấy tình thương. Rồi lại rơi vào sự nuối tiếc, sự cục cằn thô bạo. Khi tỉnh lại, Hộ càng đau đớn hơn nữa lẽ sống cuối cùng cũng không giữ được. Hộ nói với vợ trong tiếng nức nở : “Anh … chỉ là… một thằng… khốn nạn”
Ø Người trí thức trong truyện ngắn Nam Cao còn ghi lại những quằn quại trong cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản.
Ðấu tranh với xu hướng thoát li hưởng lạc “Quên điều độ ” “Nhìn người ta sung sướng”, “Trăng sáng”, “Truyện tình”
Câu chuyện tội nghiệp của anh chàng Lưu trong “Truyện tình” với cô Kha nhí nhảnh. Ðó là bài học với anh tiểu tư sản nghèo cay đắng. Cái cô gái xinh đẹp, nhí nhảnh, thơm tho đầy quyến rủ kia chẳng phải là của anh, chúng nó chỉ là đứa giả dối, hợm hĩnh, ích kỷ, đểu cáng, chúng chẳng quý trọng gì người nghèo mà chỉ lợi dụng cái ngây ngô khờ dại của anh rồi quẳng anh đi bất cứ lúc nào.
Nam Cao thù ghét sự ích kỷ độc ác và quan niệm về kẻ mạnh “không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình ” (Ðời thừa).
Nam Cao luôn muốn bênh vực mọi người bằng lỗi lầm của họ. Muốn hoà giải con người bằng sự cảm thông. Truyện của Nam Cao ghi lại những giằng xé quằn quại của người tiểu tư sản trong cảnh bế tắc, đồng thời cũng ghi lại sự chiến thắng của tư tưởng nhân đạo.
Nhưng nước mắt chỉ là nước mắt. Lý tưởng nhân đạo ấy chỉ xoa dịu và giữ cho Nam Cao trước vực thẳm sa ngã, tuyệt vọng, chứ hoàn toàn không có khả năng cải tạo xã hội. Nam Cao và cá nhân vật của mình vẫn bế tắc.
2. Tiểu thuyết “Sống mòn”
“Sống mòn” nguyên “Chết mòn” viết xong cuối năm 1944, nhưng bản thảo sau khi bán bản quyền cho nhà xuất bản bị vứt lay lắt không được in mãi năm 1956, “Sống mòn” mới được ra mắt độc giả lần đầu tiên.
a. Bi kịch “Chết mòn” về tinh thần tri thức của người tri thức tiểu tư sản
– Lớp tri thức tiểu tư sản: sống nghèo khổ tủi nhục, bế tắc
Cậu giáo Thứ, giáo San: những thanh niên con nhà có máu mặt một chút ở thôn quê, bằng con đường học hành, họ cố leo lên một chổ đứng tử tế trong xã hội, những mong thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn. Nhưng lớp “đồ tây” ấy chẳng may mắn hơn lớp đồ nho trước họ: hoặc học hành giỏi giang hoặc có mảnh bằng đấy mà vẫn thất nghiệp. Họ rơi vào tình cảnh dở sống dở chết. Bị hắt ra ngoài lề xã hội một cách thảm hại.
Nhân vật Thứ : Thứ đã từng nuôi giấc mộng lớn: “y sẽ vào đại học đường, y sẽ sang Tây… y sẽ thành vĩ nhân đem những đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình”. Với niềm tin ngây thơ và lòng hăng hái của tuổi trẻ lãng mạn, Thứ đi Sài gòn, tưởng đâu là một cuộc viễn du đẹp đẽ. Nhưng sau 3 năm lặn lội kiếm sống bệnh tật đã trả, quẳng Thứ về quê nhà để nằm dài thất nghiệp và để chứng kiến cái làng quê tiêu điều của mình càng thêm điều hơn.
Thứ phải tìm cái trường tư vô danh ở một xó ngoại ô để dạy học kiếm sống. Nhưng “công việc mỏi mệt quá đi cày ” mà đồng lương quá bạc bẻo. Thứ làm việc đến kiệt sức, hà tiện vắt ruột mà cứ túng thiếu không cất đầu lên được.
Cuộc sống khốn khổ ấy cũng không xong: chiến tranh đến, trường đóng cửa. Thứ bị hắt về quê ăn bám vợ, “đời y sẽ mốc lên sẽ rỉ đi, sẽ mòn ra ở một xó nhà quê…rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả chết mà chưa sống !…”. Ðó là bước đường cùng không lối thóat của tầng lớp tri thức tiểu tư sản nghèo, đó là thực trạng đau sót buồn thảm, bế tắc của cả môt xã hội đang rên xiết.
Nhưng giá trị “Sống mòn” không dừng ở đó “Sống mòn” tập trung đi sâu vào bi kịch “Chết mòn” về tâm hồn con người trong cái xã hội không cho con người sống, có ý thức về sự sống mà không được sống. Bị nhấn chìm trong cảnh “chết mòn” mà không cưỡng lại được.
Thứ khao khát một cuộc sống hữu ích, cao cả Anh có quan niệmkhá sâu sắc, đúng đắn về ý nghĩa chân chính cuộc sống: “Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở mình. Phải gom góp sức lực mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại một chút gì cho nhân loại”. Nhưng “đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất”. Cuộc đời khốn nạn bắt Thứ phải sống “cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết đến một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày”. Một lối sống mà Thứ hết sức khinh ghét. Thứ khao khát một cuộc sống rộng lớn luôn luôn đổi mới. Nhưng cuộc đời đã giễu cợt giấc mộng giang hồ của Thứ và bắt Thứ kéo lê cuộc sống đơn điệu, mòn mỏi, tù đọng ở một xó ngoại ô dở tỉnh dở quê, ngày tháng trôi đi “bình lặng và vô sự… không có hy vọng gì đổi thay”.
Thứ mong muốn giữa người với người có sự cảm thông, yêu thương. Anh muốn trân trọng mọi người và có ý thức gần gũi nhân phẩm của mình. Nhưng “chất độc ở ngay trong sự sống” thấm vào máu từng người. Chất độc ấy vùi dập những gì tốt đẹp, kích thích những gì nhỏ nhen xấu xa trong con người. Thứ cũng không tránh được sự nhỏ nhen xấu xa trong cuộc sống đang xảy ra chung quanh mình với vợ con, với bạn bè đồng nghiệp. Thứ có lúc nghĩ tới sẽ phản bội vợ, vũ phu với vợ, phản bội bạn bè và mong cho bạn chết. Nghe tin Ðích ốm nặng, Thứ thầm mong Ðích chết ngay lúc ấy. Thứ đã khóc “khóc cho cái chết của tâm hồn y”. Cả cuốn “Sống mòn” là tiếng khóc lặng lẽ mà đau đớn về “cái chết của tâm hồn”.
Với những mẩu chuyện tầm thường trong sinh hoạt hàng ngày. Nam Cao đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa lớn lao, sâu sắc. “Sống mòn” dõng dạc kết án cái xã hội thối nát đã bóp nát mọi ước mơ, mọi khả năng tiềm tàng và mọi cái tốt đẹp trong con người, đã tàn phá tâm hồn, giết chết sự sống. Từ chiều sâu tác phẩm vút lên tiếng kêu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, cứu lấy sự sống.
b. Phê phán lối “Sống mòn” và tư tưởng tiểu tư sản
– Lối “Sống mòn” : ngòi bút sắc sảo của Nam Cao đã phơi ra ánh sáng những lối “Sống mòn” đáng thương và đáng sợ.
– Bộ mặt tinh thần của mấy thầy giáo, cô giáo trong “Sống mòn” thật buồn tẻ, thảm hại. Họ sống chen chúc trong một không khí tù đọng, bụi bặm, ẩm mốc. Chỉ mong có miếng ăn và được yên thân.
Nhân vật San : sống buông xuôi, luôn thèm khát thú vui vật chất, chẳng có một ước mơ gì cao xa.
Nhân vật Oanh : lại “Sống mòn” theo kiểu khác. Ở người đàn bà “gầy đét, cứng nhắc và khô” này, tình cảm tâm hồn con người bị vắt kiệt để chỉ còn những tính toán, ích kỷ, nhỏ nhen, keo kiệt đến độc ác.
Xã hội ấy, tình trạng “Sống mòn” là rất phổ biến, ngay trong những người lao động cũng đầy rẫy những lối sống vô lý, những lối sống mòn. Cuộc sống của ông Học, ngày nào cũng như ngày nào, ông dậy sớm, chẻ củi, xay đậu.. “như một cái máy”. Cả đời ông chỉ có hai niềm vui gần như say mê: ăn mía lau và thổi kèn tàu. Tâm hồn ông có cái hồn nhiên, đơn giản nhưng quá đơn giản đến nghèo nàn, thô kệch, mù tối. Theo Thứ sống như vậy chưa phải là sống. “Yên thân, nhưng yên thân như vậy để làm gì ? Làm để có ăn, ăn để sống, sống để đợi chết … cả cuộc đời chỉ thu gọn vào bằng ấy việc thôi ư ?”
Hình ảnh u em nhà ông Học “lặng lẽ như một con ma ngồi vá bên một ngọn đèn con”, “Thứ có cảm tưởng thị vá chỉ vì đêm dài quá, không sao ngủ hết”.
Ðó là những hình ảnh có sức gợi rất nhiều về việc sống buồn tẻ, nhẫn nhục, thầm lặng đến phát sợ trong cuộc đời cũ.
Với một tâm hồn dịu dàng, nhạy cảm với đôi mắt sắc sảo tinh tế, Nam Cao đã phơi bày không che đậy lối “Sống mòn” đang phổ biến. Một mặt Nam Cao lên án nghiêm khắc cái xã hội đẩy con người vào tình trạng giam hãm lâu đời trong cái khổ, trong sự tù túng và dốt nát. Mặt khác, nhà văn đã thức tỉnh trong con người nỗi “ghê sợ ” lối sống mòn dung tục và niềm khao khát một cuộc sống đẹp, ý nghĩa.
– Phê phán lối sống tiểu tư sản
Ø Nhân vật Thứ hình ảnh bản thân Nam Cao đã bộc lộ khá đầy đủ lối sống tiểu tư sản. Nổi bật là tâm lý bất lực, ươn hèn, cái tính nhút nhát, tật “hãi người ” từ bé, tính do dự, hay nghĩ ngợi quấn quanh, sợ đổi thay, đổ vở, ngại hành động.
Chính bất lực và bất động đó dẫn đến tâm trạng tự ti, buồn tủi rất phổ biến ở người tiểu tư sản nghèo lép vế. Thứ luôn luôn bị ám ảnh bởi những ý nghĩa cay đắng “y xấu, y hèn, y chỉ là anh giáo khổ trường tư nên chỉ dám nghĩ, dám nhìn một người con gái xa xa lặng lẽ… nhìn để buồn… để chua chát .
Thầy thanh niên nghèo khổ này đôi lúc cũng vẫn lên nổi thèm khát ăn chơi hưởng lạc. Dự định đến trọ nhà Hải Nam đã gợi cho Thứ cả một giấc mộng về cảnh sống đàn điếm, lãng mạn. Có điều, Thứ vốn là người có ý thức về nhân phẩm, sống vị tha và có trách nhiệm nên đã tự đấu tranh để vuợt qua được.
Ø Những hoài nghi, bi quan về “người đời” tính đa nghi, cái nhìn xoi mói đôi khi tàn nhẫn đối với người đời. Cái tật hay ghen không tin “ở lòng dạ đàn bà ” của Thứ là những biểu hiện của tâm lý hoài nghi, vốn có nguồn gốc xã hội sâu xa.
Ø Thói sĩ diện hão cũng là một nét nôi bật trong tính cách tiểu tư sản, nhất là ở phần tử tri thức. Kẻ sĩ diện thường dấu giếm cái nghèo hèn và phô trương cái giàu sang “cao quí ” của mình. Thứ rất nghèo túng nhưng muốn tỏ ra hào phóng để rồi sau đó hối hận xót xa. Không dám dọn nhà ban ngày vì sợ thiên hạ biết mình ít đồ đạc, ban đêm mới lẻn đi giống như một cô gái chửa hoang đi đẻ. Người tiểu tư sản trong “Sống mòn” mang tính bi hài kịch.
c. Sức mạnh tố cáo của “Sống mòn” và niềm khao khát đổi thay
Nhân vật phản diện trong “Sống mòn” là cuộc đời là toàn bộ cái xã hội tàn bạo đã gây nên cảnh chết mòn thê thảm của mọi nhân vật. Trên giường bệnh Ðích rít lên trong cơn hấp hối “Ðời ! … ôi chao đời !” Thứ cũng hằn học: “Cuộc sống… cuộc sống thật là một cái gì nặng nề, trói buộc quá ” những tiếng kêu rên xiết toát lên từ chiều sâu bi thảm của mỗi số phận, lặp đi lặp lại như một nét nhạc toàn buồn tạo nên cái âm hưởng chủ đạo của bài ca “Sống mòn”.
“Sống mòn” không trực tiếp phản ánh trên bình diện đấu tranh giai cấp nhưng Nam Cao thấy rõ tình trạng bất công phổ biến trong xã hội đương thời: “Bao giờ và ở đâu cũng thế thôi. Thằng nào đã chịu khổ quen rồi thì cứ cố mà chịu mãi đi ! mà thường thường những kẻ ăn nhiều nhất, hưởng nhiều nhất lại là những kẻ không đáng ăn một tí nào, hưởng một tí nào “. Trong “Sống mòn” không có hai chữ chế độ. Nhưng Nam Cao đã đặt ra vấn đề chế độ. Vấn đề không phải tại “người này hay người kia” mà là toàn bộ cái xã hội phải thay đổi. “Sống mòn” toát lên cái yêu cầu cấp bách đòi phá tung trật tự khốn nạn thít chặt lấy số phận con người.
– Niềm khao khát đổi thay
Cuối truyện một sự thật “to lớn quá, mạnh mẽ quá, bi thảm quá “. Nhân loại đang lên “cơn sốt rét”, đang “quằn quại để đổi thay”. Phải thay đổi trong bế tắc cùng đường. Thứ muốn bám vào một niềm tin. Thứ dự cảm thấy một sự đổi thay to lớn: “Lòng Thứ đột nhiên hé ra một tia sáng mong manh. Thứ tự thấy hy vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này cuộc sống sẽ dể chịu hơn, công bình, đẹp đẽ hơn”.
Tác phẩm kết thúc bế tắc, nhưng tia sáng mong manh đó vẫn le lói như hứa hẹn một bình minh xa xôi sẽ tới.
Nhưng đổi thay bằng cách nào ? Thứ cho rằng phải “nhìn nhận rõ ràng cái khổ để tìm cách diệt khổ “. Anh phản đối thái độ sống nhẫn nhục đầu hàng. Xã hội tương lai mà Thứ mơ ước: “Ai cũng phải làm, ai cũng phải được no đủ, tự do mà chỉ ai làm mới được no đủ tự do”
Tuy vậy, “Sống mòn” chưa vương tới tư tưởng Cách mạng. Nam Cao, về căn bản cũng chưa vượt khỏi nhãn quan và lập trường tiểu tư sản. Thứ vẫn cứ là nạn nhân bất lực, chỉ suy nghĩ suông mà chưa hành động. Ðó là hạn chế căn bản của nhân vật Thứ cũng là hạn chế của tác giả.
“Sống mòn”vẫn chưa vượt khỏi khuôn khổ của văn học hiện thực phê phán. Nhưng trong khuôn khổ ấy nó xứng đáng được coi là thành công xuất sắc cuối cùng của trào lưu hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám.
III. ÐỀ TÀI NÔNG DÂN
1. Những nhân vật nông dân trong truyện ngắn Nam Cao
Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, thê thảm của người nông dân.
Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên trong bần cùng, giờ đây đang tiến tới thảm họa khủng khiếp 1945.
– Cảnh chết đói: lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh chết đói.
Anh Cu Phúc chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm thấp trước đôi mắt “dại đi vì quá đói ” của hai đức con (Ðiếu văn).
Bà cái Tí chết vì một bửa quá no, một kiểu chết đói (Một bửa no).
Cảnh đám cưới chạy đói (Một đám cưới). Một đám cưới của Dần trong cảnh nghèo, không đón đưa, không may mặc, không cỗ bàn, một đám cưới có 6 người cả nhà gái nhà trai: : “cả bọn đi lũi lũi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt nhau đi tìm chỗ ngủ “.
Còn biết bao nhiêu truyện thương tâm về người nông dân bị đày đọa nhục nhằn xung quanh cái đói (trẻ em không biết ăn thịt chó). Nghèo từ ngày mẹ chết, Ðòn chồng.
– Nam Cao chú ý đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp bức bất công nhiều nhất, chịu số phận đen đủi, hẩm hiu. Những kẻ cố cùng như Bình Chức “làm thì cật lực mà quanh năm vẫn nghèo rớt mùng tơi, chỉ vì một miếng ăn mà cũng không giữ được mà ăn, đứa nào vớ được nó cũng xoay mà đứa nào xoay cũng chịu”. Như Chí Phèo bị cả xã hội bỏ rơi ngay từ khi mới ra đời. Ðó là Thị Nở một người đàn bà ế chồng, sinh ra từ một gia đình có mả hủi, bị loài người xa lánh. Ðó là một mụ Lợi, Cu Lộ Lang Rận, những người không được loài người coi là người. Ðó là thân phận trâu ngựa của những đứa ở cho nhà giàu, những cái Tí, cái Dần, anh Cu Phúc ăn thì chẳng bao giờ đủ no mà công việc và những lời chửi rủa thì thừa bửa tứa tát.
– Bị ức hiếp nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ trong xã hội; đó là dì Hảo (Dì Hảo), Nhu (Ở hiền) những cô gái hiền như một ngụm nước mưa, cả đời chỉ biết yêu thương, nhường nhịn nhưng cả đời chỉ gặp cay đắng phủ phàng. Ðó là Mụ Lợi (Lang Rận), 36 tuổi vẫn lận đận về chuyện chồng con, chỉ vì nghèo quá suốt đời đi ở “kể người ta nuôi mụ chỉ biết nuôi, nuôi để mụ hầu hạ người ta, còn cái sự mụ có chồng hay không có chồng thì mặc mụ “.
Trong xã hội ấy, thân phận người phụ nữ là thân phận nô lệ, luôn bị chà đạp thô bạo, bất công có khi họ là nạn nhân khốn khổ cùng kẻ mà họ phải thờ phụng. Những thằng chồng vũ phu, tham ăn tục uống, hành hạ vợ một cách dã man (Ở hiền, Dì Hảo, Ðòn chồng, Trẻ em không được ăn thịt chó )
Ði vào cuộc đời những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng hiền lành càng lụi xuống bùn đen, Nam Cao đã làm nổi bật lên tình trạng bất công ghê gớm trong xã hội: “tại sao trên đời này nhiều sự bất công đến thế ?”. câu hỏi không lời giải đáp đó trongỞí hiền” một truyện ngắn có tính chất luận đề nghi vấn, cái “đạo lí ở hiền gặp lành ” cũng là vấn đề Nam Cao đặt ra trong hầu hết tác phẩm của mình.
– Trong tác phẩm của Nam Cao ta thường gặp những nhân vật nông dân xấu xí, thô lỗ, độc ác, nhục nhã trong cuộc sống của họ. Ðiều đó khiến cho một số người hoài nghi ý nghĩa hiện thực và nhân đạo của nhiều truyện Nam Cao. Ðúng là trong sự biểu hiện một số truyện Nam Cao có vẻ tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng không như những nhà văn chủ nghĩa nhìn quần chúng như một lũ vật – người ngu dốt đầy thú tính.
Trái lại từ cái bề ngoài xấu xí, có khi rất thú vật của người nông dân đã phát hiện ra tâm hồn con người. Nam Cao không chỉ nói đến tình cãnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào nổi khổ, tâm hồn con người bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc phạm, giá trị làm người bị tước đoạt.
“Một bữa no” là câu chuyện cay đắng thê thảm về cái chết nhục nhã của một bà lão khốn nạn
“Ðòn chồng” là câu chuyện về một người đàn bà khác bị sỉ nhục, bêu riếu hành hạ dã man.
“Lang Rận” là một câu chuyện cực nhục thê thảm nhất. Lang Rận con người nghèo khổ, bẩn thỉu bị mọi người hắt hủi đã tìm đến với Mụ Lợi – một người đàn bà xấu xí bị hắt hủi như mình. Nhưng mối tình chính đáng tội nghiệp của họ trở thành trò bêu riếu trò chơi thú vị kích thích tính tò mò của hai đưá đàn bà nhà giàu “nồng nộng chơi, không suốt ngày tơ tuốt “, “cười hy hý và phát lưng nhau đồm độp … “. Cuối cùng chúng đã đặt Lang Rận vào một tình thế vô cùng nhục nhã khiến Lang Rận chỉ còn một cách thắt cổ tự tử.
Bị sỉ nhục tàn tệ, người nông dân khốn khổ chỉ có thể hoặc từ bỏ cuộc sống như Lang Rận, hoặc phải từ bỏ lòng tự trọng nhân phẩm như Cu Lộ, Chí Phèo.
Nam Cao đã đanh thép lên án cái xã hội chà đạp người nông dân lượng thiện và dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ ngay trong khi bị nhục mạ một cách độc ác bất công.
Trước Cách mạng tháng Tám ít có nhà văn hiểu được cách sâu xa ngõ ngách sâu kín, những hy sinh thầm lặng mà cao quí trong tâm hồn người nông dân như Nam Cao. Ðó là chỗ mạnh trong cái tài của nhà văn nhưng trước hết là ở cái tâm “chữ tâm kia với bằng ba chữ tài ” tức là ở tấm lòng tri âm của nhà văn đối với người nông dân nghèo khổ.
Số phận người nông dân có thay đổi được không ? câu hỏi đó, Nam Cao cũng như mọi nhà văn hiện thực phê phán chưa trả lời được. Truyện Nam Cao bao trùm một không khí buồn thảm, u ám. Ðó là cái u ám của hiện thực. Nhưng cũng là u ám trong tâm hồn Nam Cao. Dưới cái nhìn bi quan của nhà văn, cuộc sống là bế tắc vô vọng, con người vật vã quằng quại, đau khổ nhưng chẳng đi đến đâu. Người nông dân thì chỉ biết cúi đầu chịu đựng, đến khi không chịu đựng được nữa thì điên lên, liều mạng vát dao giật lấy miếng ăn. Nam Cao không đồng tình đối với thái độ nhẫn nhục cam chịu: “cái nghề đờii hiền quá hóa ngu, đã nhịn thì chúng ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được” (Chí Phèo).
– Miêu tả người nông dân Nam Cao quá thiên về mặt tha hóa nặng nề, những con người xấu xí đến quái dị, ý nghĩa thẩm mỹ rất mỏng manh.
– Trong bi quan, bế tắc có lúc Nam Cao như mất phương hướng rơi vào khủng hoảng, khi ấy nhà văn dễ tiếp thu tư tưởng định mệnh, ma quái: “Nửa đêm” những nhân vật chính đều là những con vật người, điên loạn trong một không khí ghê rợn.
2. Truyện ngắn “Chí Phèo”
a. Chí Phèo lương thiện
Trong làng Vũ đại, Chí Phèo là thằng cùng hơn cả thằng cùng, không cha mẹ, không người thân thích, không nhà cửa không có miếng đất cắm dùi.
Tuổi thơ bơ vơ hết đi ở cho nhà máy lại đi ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên làm canh điền cho Bá Kiến.
Sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông, khỏe mạnh, hiền lành, chất phác.
Có những ước mơ chân chính: một gia đình nhỏ làm thuê cuốc mướn vợ dệt vải. Trong xã hội cũ, ước mơ chỉ là ảo tưởng, còn đau xót khổ cực mới là hiện thực.
Chí Phèo là một thanh niên có tâm hồn đẹp: yêu – ghét, khinh – trọng rất rõ. Anh đã phân biệt tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa. Bị gọi lên bóp chân, đùi cho bà ba anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì.
Khi tỉnh rượu, anh tha thiết được trở lại với xã hội loài người “thèm lương thiện muốn làm hòa với mọi người biết bao”.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã loé lên một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối dằng dặc. Sự săn sóc giải dị ở Thị Nở, người đàn bà khốn khổ ấy đã khơi dậy, đánh, thức bản chất lương thiện của người cố nông Chí Phèo.
Lần đầu tiên sau bao năm Chí Phèo nghe tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ đuổi cá. Ðây là tiếng gọi tha thiết của sự sống đang níu kéo anh trở về với lương thiện.
b. Chí Phèo lưu manh
Quãng đời lương thiện của Chí Phèo quá ngắn ngủi và chấm dứt khi bị Bá Kiến cho giải lên huyện rồi đi ở tù : Sau bảy tám năm biền biệt, khi trở về Chí hoàn toàn thay đổi.
Hắn không còn là người nông dân nữa mà là phần tử bị loại ra ngoài xã hội.
Nhà tù thực dân bắt người lúc lương thiện và thả ra thành hung dữ, nhà tù giết cái phần “người ” của Chí, chỉ còn lại cái phần “con”. Hiện tượng bi thảm ấy có tính chất qui luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người. Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa gần của Chí Phèo như Trạch Văn Ðoành, Lê Văn Rự (Ông thiên lôi) “Nửa đêm”, Cu Lộ Tư cách mỏ “, Tư Lăng, Binh Chức, Năm Thọ những tiền bối gần xa của Chí Phèo.
Những cơn say triền miên của Chí dẫn đến hậu quả : say ( chửi; say (cướp giật; say ( chém giết.
Chí Phèo sống cuộc đời bản năng thô bạo, cũng giống như những người bạn say của Chí “lúc nào cũng nghĩ tới màu xanh của một chai rượu văn điển và màu vàng của một đùi thịt chó nướng”.
Chí Phèo trở thành tên quỉ dữ của làng Vũ Ðại. Chí Phèo sống trần trụi, Chí Phèo gây tội ác một cách vô ý thức.
Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo rơi vào bi kịch của con người không được làm người, muốn làm lại cuộc đời không được chấp thuận. Trong cơn tuyệt vọng, Chí vác dao đi trả thù.
Chí Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ rệt nhưng dây không phải là một hành động trả thù có tính chất bản năng mù quáng. Chí Phèo truy tìm nguyên nhân, phù hợp với trạng thái như chập chờn say tỉnh của Chí Phèo.
Chí Phèo chưa có ý thức trả thù Bá Kiến ngay. Trước tiên nghĩ đến bà cô Thị Nở. Phải chăng theo thói quen của bước chân, Chí đến thẳng nhà Bá Kiến, nhưng cũng không hẳn là quen chân mà sâu xa hơn là một nhân tố mới đã xuất hiện trong ý thức của người nông dân.
Hai chữ “lương thiện” thốt lên ở cửa miệng con người khốn khổ vừa là một lời cầu mong, một niềm phẩn uất đồng thời là một điều tuyệt vọng.
Chí Phèo trong trạng thái tỉnh của một cơn say đã lần ra đầu mối của vấn đề. Chí Phèo hiểu rỏ Bá Kiến đãtước đi cái quyền làm người lương thiện và khả năng trở lại một người lương thiện. Tiếng gọi đòi trở lại người lương thiện mang nội dung xã hội và có ý nghĩa giai cấp. Nó như một tia sáng vụt dậy qua suốt cả cuộc đời cực nhọc tăm tối và đó cũng là giây phút tỉnh táo, có ý thức nhất, vượt lên khỏi trạng thái bản năng tự nhiên. Chí Phèo muốn được trở lại chính mình, trở về với bản chất vốn có của người nông dân sau những năm tháng dài bi tha hóa.
Hạn chế về mặt nội dung
“Tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác”. Nhà văn không hề thấy khả năng thay đổi vươn lên làm chủ vận mệnh của người nông dân. Sự thức tỉnh của Chí Phèo chỉ dẫn đến hành động khủng hoảng bi thảm. Trong thế giới nông dân của nhà văn, nếu không phải kẻ mặt mày dữ tợn, những con ác thú, thì cũng là những con sâu cái kiến, sống trong sợ hãi nhẫn nhục đến tê liệt.
Ngay cả đến Chí Phèo trước khi đi tù, tuy là canh điền khỏe mạnh nhưng vừa bóp chân cho bà Ba vừa run. Binh Thức thì hèn đến nổi “ai quát một tiếng thì đái ra cả quần”. Trong cái làng Vũ Ðại không có lấy một bộ mặt sáng sủa, có sinh khí. Chỉ có một bộ mặt vằn ngang vằn dọc của Chí Phèo, bộ mặt xấu xí “không được như mặt lợn” của Thị Nở. Bộ mặt vô nghĩa lí của lão Tư Lãng thầy cúng kiêm hoạn lợn, của mụ hàng rượu, của bà cô Thị Nở. Trong cái nhìn tri âm của Nam Cao đối với nông dân vẫn đôi lúc xen vào con mặt khinh bạc, cố ý trút tất cả những nét “mỉa mai của hóa công” vào nhân vật Thị Nở một chân dung biếm họa quá ghê tởm và lạc lõng. Nam Cao cũng như hầu hết các nhà văn hiện thực phê phán, chưa thể vưỏn tới nhận thức cách mạng cũng chưa có một quan điểm giai câp chính xác. Khi triết lý một cách bi quan: những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh. Nhà văn đã xóa nhòa ranh giới giai cấp và vô tình biên hộ cho thống trị đầy tội ác mà nhà văn vừa lên án đanh thép .
IV. VÀI NÉT VỀ ÐẶC ÐIỂM NGHỆ THUẬT
Nam Cao có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một phong cách đa dạng, mới mẻ độc đáo.
1. Phản ánh những khía cạnh chân thực
Sức mạnh tài năng của Nam Cao thể hiện trước trước hết ở sự chân thực trong nội dung và trong hình thức nghệ thuật.
Một đặc điểm đặc sắc của Nam Cao là từ những sự việc rất mực tầm thường quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày đã đặt vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn.
Ðọc Nam Cao, ta vừa thấy hiện rõ trước mắt những chi tiết chân thực cụ thể vừa vương vấn những suy nghĩ triết lý mà tác giả gửi gắm đằng sau mỗi câu chuyện.
Viết về người nông dân, cốt truyện đơn giản mà ý nghĩa xã hội sâu sắc. Viết về người tri thức là viết theo dòng suy nghĩ của nhân vật.
Truyện của Nam Cao thường đậm đà ý vị triết lý, mang nặng suy nghĩ. Ðó là những suy nghĩ được vắt ra từ cuộc sống vất vả, lầm than, từ những giằng xé của một tâm hồn trung thực cố bám sát vào cuộc sống và vươn tới chân lý.
2. Chất trử tình
“Trong văn xuôi trước Cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc, soi mói như của Nam Cao” (Lê Ðình Kị văn nghệ số 54, 8-5-1964)
Ngòi bút của Nam Cao thường lạnh lùng nhưng không hề giống cái lạnh lùng trước số phận quần chúng của các “tác giả tả chân tư sản”. Ngôn ngữ của Nam Cao dùng cho “ông Chánh “, “bà phó ” và dửng dưng khi nói đến con người nghèo khổ thường gọi là “hắn “, “y”, “thị “, “mụ “. chính giọng bình thản lạnh lùng ấy là cảm xúc nén lại khiến cho sự phẩn uất xót thương càng tăng lên.
Ở nhiều truyện, Nam Cao thường mở đầu bằng tiếng cười hả hê, vô tâm trước một bộ mặt xấu xí, một tình huống khôi hài của nhân vật, nhưng khi gấp trang truyện lại, người đọc thấy sót xa rùng mình về số phận thê thảm của con người bị đè nén, bóc lột, bị sỉ nhục thậm tệ.
Tác phẩm của Nam Cao có một phong thái trữ tình thắm thiết. Truyện Nam Cao thường là truyện ít tình nhiều. Nhiều truyện có tính chất tự truyện kể về cuộc đời, tâm sự tác giả. Nhà văn thường xen lẫn tự sự và trữ tình, vừa kể chuyện vừa tham gia vào câu chuyện. Có khi Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm trực tiếp đứng ra kể chuyện và phát biểu cảm nghĩ của mình.
Số phận bi thảm của dì Hảo
Câu chuyệnvề anh Cu Phúc là những lời “điếu văn” cảm động trước cái chết (Ðiếu văn).
Giữa một câu văn tự sự bỗng vút lên tiếng kêu thương cảm thán: “Lão hạc ơi ! Lão hãy yên lòng nhắm mắt “, “Dì Hảo ơi ! tôi hãy còn nhớ cái ngày dì bỏ đi lấy chồng. Ðó là một buổi chiều cỏ sương bay”. Một đám cưới “lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chổ ngủ “ (Một đám cưới)
3. Miêu tả tâm lí nhân vật
Viết về người nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần của họ. Viết về người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao phát hiện ra bi kịch tâm hồn.
Thế giới nhân vật của Nam Cao đông đảo mỗi nhân vật có một diện mạo tâm lý riêng. Tính cách, tâm lý nhân vật được khắc họa rõ nét chủ yếu bằng sự soi sáng bên trong hơn là bằng miêu tả ngoại hình và hành động bên ngoài.
Nhân vật Bá Kiến có giọng quát “rất sang ” và tiếng cười “Tào Tháo” bá Kiến là một con hổ biết cười.
Nhân vật trí thức tiểu tư sản Nam Cao chú ý cái thư thế còm ròm, xo ro, thể hiện một cuộc sống mờ nhạt thiểu não nhỏ nhen. Có những nhân vật không miêu tả ngoại hình mà vẫn sống vì được soi sáng từ bên trong.
Ngòi bút Nam Cao sinh động khi miêu tả diển biến tâm lý nhân vật, Bá Kiến, Chí Phèo.
– Truyện Nam Cao kết cấu không theo trình tự thời gian: phần kết thúc đưa lên trước, thường là bắt đầu từ giữa câu chuyện rồi mới ngược trở về trước và tiếp tục về sau (Chí Phèo, Một đám cưới, Ðời thức, Sống mòn)
– Nam Cao ít tả cảnh, mà có tả cảnh cũng để soi sáng nội tâm nhân vật. Cũng có trăng, trăng của anh văn sĩ lãng mạn là “liềm vàng”, “đĩa bạc là cái vú mộng tràn đầy mà thi sĩ của muôn đời mơn man” (Trăng sáng). Còn trăng trong “Chí Phèo” thì “nhễ nhại”, “rời rợi như là ướt nước …giẫy lên đành đạch như là hứng tình”
– Ngôn ngữ trong truyện của Nam Cao là lời ăn tiếng nói quần chúng, giản dị mà phong phú chắc chắn mà uyển chuyển, có khi xù xì dài dòng nhưng trong sáng đậm đà thường xen lẫn thành ngữ, tục ngữ.
V. KẾT LUẬN
Nam Cao thực sự là một cây bút văn xuôi đầy tài năng
Một quan điểm nghệ thuật vững vàng. Nội dung viết ra trong tác phẩm là tấm lòng yêu thương ưu ái với tầng lớp người biết áp bức. Văn chương của Nam Cao là “tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than”
Nghệ thuật của Nam Cao là thứ nghệ thuật tìm tòi, sáng tạo “Biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nhữngnguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có “.
NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH (1890- 1969)
|
I. NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ CÁCH MẠNG:
Bác thời niên thiếu tên là Nguyễn Tất Thành, những năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác.
Bác xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước. Lúc nhỏ học chữ Hán, lớn lên học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp ở trường quốc học Huế. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc dạy học ở Dục Thanh Phan Thiết, sau đó đi ra nước ngoài, tìm đường cứu nước, từng hoạt động ở nhiều nước như Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, chủ yếu ở Pháp. Năm 1919 thay mặt người Việt Nam ở Pháp, Người gửi tới hội nghị hòa bình ở Vecxây bản yêu sách quyền các dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Ðảng cộng sản Pháp. Ngày 3/2/1930 Người chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Ðảng cộng sản Ðông Dương ở Hương Cảng. Tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước thành lập Mặt Trận Việt Minh. Từ khi về nước Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh: đọc bản tuyên ngôn độc lập, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đến thắng lợi.
II. NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH VIẾT VĂN VÀ LÀM THƠ VÌ CÁCH MẠNG:
1. Hồ Chủ Tịch không có ý định trở thành một nhà văn nhà thơ: vì trách nhiệm của một người dân mất nước, dường như Người đã linh cảm con đường tương lai của mình không phải là con đường khoa cử văn chương.
2. Sinh thời không nhận mình là nhà văn nhà thơ. Trong Nhật kí trong tù Người viết: Lão phu nguyên bất ái ngâm thi.
3. Thơ văn của người viết ra đều mang đặc tính. Trước hết về cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác dùng văn thơ như là một phương tiện để tuyên truyền phục vụ cách mạng.
III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH:
_ Những tác phẩm kí tên Nguyễn Ái Quốc:
+ Truyện ngắn Vi Hành 1920
+ Tiểu thuyết: Bản án chế độ thực dân Pháp 1925.
+ Kịch: Con rồng tre 1922
+ Kí: Nhật kí chìm tàu 1935.
_ Những tác phẩm kí tên Hồ Chí Minh:
+ Thơ: Ngục trung nhật kí 1942- 1943.
+ Truyện: Giấc ngủ 10 năm 1949.
+ Thơ Hồ Chí Minh gồm một số bài viết: chữ quốc ngữ và chữ Hán từ 1941 đến 1969. Ngoài ra còn nhiều bút kí, truyện ngắn, Bác viết ở Pháp, Thái lan, Trung Quốc. Bác còn dịch cuốn Tỉnh ủy bí mật của Phê-đô-rôp. Năm 1974 nhà xuất bản đã cho in 6 truyện ngắn và bút kí của Hồ Chủ Tịch viết thời kì ở Pháp.
IV. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NHẬT KÍ TRONG TÙ.
1. Hoàn cảnh ra đời
Tháng 1- 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Bác về nước, để chỉ đạo cách mạng trong nước. Tháng 5 năm ấy Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Ðảng họp ở hang Pác Bó dưới sự chủ tọa của Người, quyết định thành lập Việt nam độc lập đồng minh tức là mặt trận Việt minh để đoàn kết đông đảo nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Cần tranh thủ thêm sự giúp đở của đồng minh, mà đồng minh gần ta nhất là Trung Quốc. Người hiểu biết trung Quốc hơn ai hết nên Trung ương cử Người đi Trùng Khánh nhằm mục đích tranh thủ sự viện trợ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, bên trong thì đặt quan hệ với Ðảng Cộng Sản Trung Quốc. Bấy giờ Người đổi tên là Hồ Chí Minh.
Ði suốt trong 10 ngày 5 đêm, đến một thị trấn Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, bị khám xét, đồng chí người Trung Quốc dẫn đường không có giấy tờ bị bắt theo. Bọn bộ hạ của Tưởng cho là Bác sang phá tổ chức Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội của Trương Công Bội và Nguyễn Hải Thần, do chúng đỡ đầu. Cũng bởi thế cho nên những bức điện của Bác gởi cho bọn cầm quyền trong chính phủ Tưởng đều không được trả lời.
Chúng giải Bác đi khắp nơi, tay bị trói cổ mang vòng xích, dầm mưa dãi nắng, trèo núi , vượt truông. Hơn một năm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch Bác đã làm 134 bài thơ in trong cuốn Nhật lý trong tù trong đó có bài Mới ra tù tập leo núi làm sau khi Bác đã ra khỏi tù nhưng nhà xuất bản văn học vẫn in chung trong tập Nhật ký trong tù, xuất bản 1960.
Tháng 5- 1990, kỷ niệm ngày sinh 100 của Bác, người ta đã tìm được 20 bài thơ chữ hán viết trong thời kỳ bác bị giam giữ trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Như vậy, Nhật lý trong tù sẽ có 134 bài thơ bằng chữ Hán.
Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 được trả tự do ngày 10-9-1943, một năm sau nữa, tháng 9-1944, nhà đương cục Trung Quốc mới để Bác về nước. Bác viết Ngục trung nhật ký trong hoàn cảnh ấy. Ơí đây thơ bật ra ngoài ý muốn của Người.
Nhật ký trong tù là cuốn nhật ký ghi chú sự việc xảy ra trong những ngày Bác bị giam giữ. Nhật ký trong tù viết bằng thơ chữ Hán không phải là một bài thơ trường thiên liền mạch mà là nhiều bài, mỗi bài về một vấn đề, thể điệu có thay đổi nhưng phần lớn là thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Thơ văn trong tù xưa nay có nhiều bài nổi tiếng như Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc Kháng, Xiềng Xích của Tố Hữu. Văn học thế giới có tác phẩm vĩ đại Viết dưới giá treo cổ của Phu Xích và Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là một điều hiếm có.
2. Nội dung tác phầm Nhật ký trong tù
a. Nhật ký trong tù thực chất là một bức tranh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch
Xã hội Trung Quốc thời kỳ 1942-43 mục ruỗng từ lâu đời. Nhật ký trong tù đã ghi lại sự việc Bác đã phải sống, đã chứng kiến. Quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, sáng trưa, chiều tối. Chuyện cái cùm, dây trói, cảnh người tù cờ bạc bị chết. Ðây là đặc trưng của bút pháp tả thực, đứng ở một góc độ nhất định để diễn tả được một cách rõ ràng, chính xác… Bác đã đứng ở góc độ người tù nhân đã tường tận nếm trải mọi cực hình, chứng kiến mọi sự việc xảy ra trong nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Trước hết hãy nói tới sự bất công vô lí trong nhà tù. Vị lãnh tụ của Cách mạng Việt Nam vừa sang khỏi biên giới đã bị bắt và đưa ngay vào nhà tù bọn Tàu tưởng
Ta là đại biểu dân Việt Nam
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió
Phải làm khách quí tại nhà giam.
(Ðường đời khó khăn)
Cái gì đang chờ Bác ở đó ? Nhất là khi chúng biết Bác là người Cộng sản. Mà đường lối xử thế đối với Ðảng viên cộng sản hồi bấy giờ Thà giết oan một trăm, còn hơn là để một tên chạy thoát.
Ðăt chân lên đất Trung Quốc, bác bị bắt ngay ở phố Túc vinh Túc Vinh khước sử dư mông nhục . Lối chơi chữ Vinh – Nhục nhưng quan trọng nhất đối với con người là vấn đề danh dự. Nhà tù Quốc dân đảng đã chà đạp lên danh dự của con người chà đạp lên nhân quyền của con người. Bọn quân phiệt khắp nơi trên thế giới là một lũ vô pháp, vô thiên.
Chế độ xã hội trung Quốc thời Tưởng mục nát từ bao đời thì nhà tù đâu còn là nơi giáo dục cải tạo mà ngược lại tội ác tha hồ mà phát triển. Một điều vô lý hết sức, ở ngoài đánh bạc bị bắt, vào tù tha hồ đánh bạc. Bởi vì đánh bạc ở ngoài làm rối ren trật tự, đẻ ra trộm cắp, phạm đến quyền bóc lột và quyền tư hữu của bọn quan liêu. Cho nên vào đây có tiền thì mua cơm mà ăn, không có tiền thì chết đói
Tù cứng ngày ngày no rượu thịt
Từ nghèo nước mắt, bọt mồm tuôn
(Tù cờ bạc)
Vào tù không cần hối cải, phục thiện, thậm chí tha hồ gây tội, tha hồ đánh bạc
Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quách chốn này.
(Cờ bạc)
Bọn chúng không hề đếm xỉa gì đến công lí, pháp luật Nhật ký trong tù có hai bài thơ Bác nhắc tới việc trốn lính, vợ phải tù thay chồng. Mà đi lính để làm gì? Không phải là để kháng Nhật, mặc dù Nhật đánh chiếm khắp nơi, mà để tấn công Hồng quân Liên xô, Trung Quốc và để khai tăng con số cho nhiều để kiếm viện trợ ở Mỹ.
Trong tập thơ có hai bài thơ Bác viết về cảnh người vợ phải đi tù thay chồng. Ðã là công lí thì ai làm nấy chịu. Thế nhưng nhà tù Tưởng Giới Thạch sổ toẹt tất cả, chà đạp tất cả. Hơn thế nữa chúng còn bắt cả trẻ em vào tù.
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế
Cháu bé trong nhà lao Tân Dương
Nhà tù của bọn Tưởng đã trở thành nơi đầu cơ hối lộ. Vào tù phải nộp tiền giam, phải mua chỗ ngủ ở quán trọ, nếu không phải nằm cạnh chuồng xí, thổi cơm, đun nước đều phải trả tiền cả:
Thổi một nồi cơm trả sáu hào
Nước sôi mỗi chậu,một đồng trao
Một đồng, của đáng sáu hào chỉí
Giá cả trong tù định rõ sao !.
(Tiền công )
Những nét miêu tả trên đâu phải là những nét cá biệt, 18 nhà tù, Bác đã miêu tả nhiều hay ít đến như thế. Nếu ngoài xã hội mà liêm chính, không có cảnh hối lộ công khai, phổ biến thì làm thế nào những chuyện quái gở ấy thành lệ, thành chế độ trong nhà lao.
Nhật ký trong tù phải đâu chỉ tố cáo xã hội gián tiếp qua cảnh tượng nhà lao, nó vươn ra ngoài diễn tả cái xã hội Thái bình của từng Ban trưởng suốt ngày đánh bạc, cao hơn một bậc cảnh trưởng chạy quanh làm tiền, trên một bậc nữa huyện trường chong đèn hút thuốc phiện. Bác đã sử dụng thứ vũ khí châm biếm để nói lên cái vô lí, cái lố lăng, cái tàn nhẫn đang ngự trị hồi bấy giờ :
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc
Trời đất lai tân vẫn thái bình.
(Ở Lai tân)
Tóm lại, toàn bộ những cảnh tượng đã xảy ra trong Nhật ký trong tù là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Biết bao những thối nát bất công và tàn bạo của chế độ Tưởng đang đè nặng lên cuộc sống của dân lành. Nói tới sự bất công ngang trái của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch những bài thơ trong Nhật ký như là một cái tát vào mặt kẻ thù. Chất thép của Nhật ký trong tù là ở đó.
b. Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn cao đẹp của Người
Nói tới tâm hồn có nghĩa là nói tời tình cảm trước hết nói tới tình yêu thương con người của Bác. Trong văn học nhất là văn học cổ điển, có những trường hợp tư tưởng tác phẩm tự đặt ra những vấn đề mà tác giả không hề nghỉ tới như truyện Kiều của Nguyễn Du. Với Nhật ký trong tù thì trái lại, Bác chưa nói được hết những điều muốn nói. Nhưng không phải vì thế mà phẩm chất đạo đức của Bác không ngời sáng trong thơ. Ðồng chí Viên Ưng một nhà thơ Trung Quốc, sau khi đọc Nhật ký trong tù viết: Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng…tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó tỏa ánh sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm.
Aïnh sáng ấy trước hết là ánh sáng của tình thương người. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói: Tình nhân đạo , tình thương đồng bào đó là điều sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch .
Bác ái ngại cho cảnh người vợ đến thăm chồng trong ngục, người đứng trong cửa sắt, người đứng ngoài cửa sắt mà cách biệt như mộtđại dương. Có lần trong tù bổng nổi lên tiếng sáo. Qua tiếng sáo không những Bác đoán được nổi lòng của người thổi sáo mà còn nghĩ tới một người nào đó ở phương xa tưởng như cũng đang bồi hồi vì tiếng sáo:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
(Người bạn tù thổi sáo)
Cùng vất vả cực khổ thì Bác lại càng thương người bạn tù chỉ có cái chăn bằng giấy bồi, đêm thu cũng như Bác, trằn trọc ngủ không yên. Thương người tù cờ bạc nghèo không có cái gì ăn trước cái cảnh Ngày ngày no rượu thịt của kẻ khác, đành chịu Nước mắt bọt mồm tuôn. Thương người bạn tù đêm qua còn ngồi dựa lưng vào Bác, sáng ngày đã chết cứng. Tuy chỉ là một người tù cờ bạc nhưng Bác thương sót như thương sót một người thân, câu thơ đọc lên tưởng như rưng rưng nước mắt
Thân anh da bọc lấy xương
Khổ đau đói rét hết phương sống rồi…
(Một người tù cờ bạc vừa chết)
Thương những người lao động dầm mưa, dải gió mà công lao chẳng được bao nhiêu. Tâm trí Bác đã âu yếm ghi lại một cái quán nhỏ bên đường, chỉ có cháo hoa và muối trắng nhưng khách qua đường vẫn lấy đó làm chỗ tạm dừng chân.
Thương tâm nhất vẫn là những em bé. Một em bé mới nửa tuổi, có tội tình chi cũng phải theo mẹ vào tù. Bài thơ Cháu bé trong nhà lao Tân dương là lời của một em bé, đọc lên nghe như một tiếng khóc:oa…! oa…!ooa…!
Bác thương mọi số phận, tha thiết với sự biểu hiện của sự sống và của tâm linh dù đó chỉ là các run khẽ của hương hoa bị người đời và tạo hóa lãng quên, dù đó chỉ là chuyện cái răng, chuyện chiếc gậy bị Lính ngục đánh cắp. Chẳng phải Bác cao siêu gì trong quan niệm về con người. Người xưa nói: Nhân chi sơ tính bản thiện (Mạnh Tử), Tính tương cận, tập tương viễn (Khổng Tử) Bác có thơ:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
(Nửa đêm)
Dạ bán – nửa đêm khi những tù cờ bạc, rượu chè, cướp giật, những “nạn hữu” nơi tù ngục của người ngủ thì chỉ mình Người thức. Thức trắng đêm. Một mình ngắm ngía những kẻ tội lỗi kia và bổng từ khuôn mặt của những kẻ xấu đó gợi dậy trong Người một xót xa cay đắng, cao hơn một hy vọng, một quyết tâm cứu vớt chúng sinh. Bác gần gũi Giê su – Thích ca trong cái mênh mông vô biên đó và chất nhân loại cũng chính là ở đó. Xuân Diệu nói:” Người bạn tù, người tù là đề tài nhân loại đối với Bác”. Ðặng Thanh Lê từ việc khảo sát “Hình tượng bằng hữu” trong “Ngục trung nhật ký” nhận xét chính xác “Bác là một nhân cách văn hóa mang tâm hồn nhân loại”. Ðề tài nào Bác cũng viết, hình tượng nào Bác xây dựng, nhân vật nào Bác hướng tới nên rất nhân loại. Chế Lan Viên đã phân tích kỹ về hai mối quan hệ đi về giữa dân tộc và nhân loại trong Bác. Ơí Bác cái nhân loại trước tiên là nhân loại – nhân bản, nhân loại – văn hóa. Lòng thương người ở Bác chính là tinh thần nhân đạo cao độ. Chúng ta càng thấm thía ở đây là mạch nhân đạo của nhân loại chìm sâu trong Hồ Chủ tịch, có sức gợi, sức rung kỳ diệu. Mạch nhân đạo đó giúp chúng ta hiểu vì sao độc lập tự do, hạnh phúc cứ như là một điệp khúc vang mãi trong tâm tưởng của Người.
Nói tới tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch là nói tới lòng yêu người và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên ở Bác cũng chính là lòng yêu đời. Cái mạch nhân đạo trong thơ Bác giúp ta hiểu rõ cảm hứng thiên nhiên ở Người.
Chúng ta thừa nhận một sự thực phổ biến ngày nay là sự khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng trong quan hệ con người với thiên nhiên, khủng hoảng này có tác hại không nhỏ đến sự suy thoái về đạo đức, ứng xử con người với thiên nhiên bị phá vở Thiên nhiên sinh ra con người. Con người khai thác thiên nhiên để sống, nhưng lại chống phá thiên nhiên bởi khai thác vô kế hoạch, con người vẫn chưa cảm nhận đầy đủ sự phản ứng dữ dội của thiên nhiên đối với mình do mình không công bằng, chỉ biết vơ vét, chứ không lo bù đắp trở lại.
Trong sự khủng hoảng sinh thái như vậy thì việc trở về với thiên nhiên trong cách ăn mặc, ở, trong cách giao hòa cảm xúc với cây cỏ., trăng sao, một cánh chim, một ánh mây chiều… của Bác là bài học nhân đạo lớn lao biết nhường nào đối với mỗi người và cả thời đại. Với Bác thiên nhiên đã làm tốt vai trò sinh thái cảm hóa con người “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Với thiên nhiên, Bác đã làm tốt vai trò người hóa: “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”. C.Mác nói: “Con người do hoàn cảnh tạo ra, bởi vậyphải làm cho hoàn cảnh mang tính người”. Bác Hồ là kiểu mẫu đầy nhân đạo trong tính hai chiều đó :
“Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn, núi hương bay ngát rừng
Vui say ai cấm ta đừng
Ðường xa âu cũng bớt phần quạnh hiu”
(Trên đường đi)
Thiên nhiên như muốn chia sẻ nổi vất vả với Bác, thiên nhiên muốn sưởi ấm thêm tâm hồn Bác. Bởi Bác rất hiểu, rất cảm, rất mến thiên nhiên. Có được tình cảm ấy chính là lòng yêu đời ở Bác.
Giữa bao nhiêu tăm tối dày đặc vẫn ngời lên ánh sáng của một tâm hồn thương người và yêu đời vô hạn. Giữa bao nhiêu khổ cực Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy cái vui tràn đầy trong cuộc sống. Cái vui với trời đất theo một cánh chim, một làn mây, một xóm ven sông
Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta, nhưng thường nó vẫn trôi qua đi không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được.
Không phải cuộc sống ngoài nhà tù Bác nói vui mà ngay trong nhà tù, kẻ thù cũng không sao cướp hết cái vui hồn nhiên trong cuộc sống được. Quý làm sao cái vui trên nét mặt những người đang sống cảnh tù tội:
“Nắng sớm mặt trời soi cả ngục
Sương mù khói đặc sẽ tan hơi
Tràn đầy sinh khí trong trời đất
Tất cả tù nhân mặt nở tươi”
(Nắng sớm)
Sáng sớm vui, trưa cũng rất vui. Cái vui của một con người làm chủ được mọi hoàn cảnh và biến hiện thực đen tối thành ánh sáng.
“Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm
Vang tiếng đàn ca rộn tiếng ngân
Nhà ngục Tĩnh tây mờ mịt tối
Bổng thành nhạc quán viện hàm lâm”
(Xế chiều)
Sống là một niềm vui. Sự thật đơn giản và hiển nhiên là như vậy. Nhưng chúng ta còn nhớ biết bao nhiêu tiếng kêu khóc thảm thiết đã vút lên trong văn thơ ngày trước. Trong lòng phải có sẵn một tâm hồn lớn, một niềm tin tưởng vô biên mới nhìn ra được cái sự thật đơn giản và hiển nhiên ấy.
Trong hoàn cảnh xã hội cũ, lại sống trong tù đầy và giữa biết bao công việc lớn đang chờ đợi thực không dễ gì mà vui. Cũng có lúc Bác thấy buồn vô hạn:
“Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay
Ơí tù năm trọng thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nổi này”
(Ðêm thu)
Tóm lại, một trong những biểu hiện rất cao của tình thương người và lòng yêu đời chính là lòng yêu nước. Nhật ký trong tù canh cánh trong lòng nỗi nhớ nước thương dân. Chân bước đi trên đất Bắc mà lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong hoàn cảnh lầm than. Bác nhớ tiếng khóc của bao nhiêu em bé Việt Nam qua tiếng khóc của một em bé Trung Quốc, nhớ đồng chí đưa tiễn đến bên sông, nhớ lá cờ nghĩa tung bay phất phới, nhớ lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ.
“Một canh …hai canh… lại ba canh
Trằn trọc bâng khoân giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”
(Không ngủ được)
c. Nhật ký trong tù đã thể hiện một tinh thần bất khuất kiên cường
Tình thương người lòng yêu đời, yêu nước trong thơ Bác về một mặt là kế tục truyền thống thơ xưa, nhưng mặt khác lại không giống thơ xưa, nó là tâm tình của một người Cộng sản, nó gắn liền với chiến đấu, vững tin ở chiến thắng. Bác từng nói rất rõ:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)
Ý chí sắt đá và tinh thần rèn luyện cao độ, Bác đã giữ vững qua muôn vàn khổ cực và cũng đã từng nói lên được trong những hình ảnh nên thơ:
“Gạo đem vào giã bao đao đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông”
(Nghe tiếng giã gạo)
Cuộc đời hoạt động của Bác là một bài thơ lớn, tràn đầy sức sáng tạo. Nhật ký trong tù không thể nào sánh được với toàn bộ bài thơ lớn ấy. Bác là người làm thơ trong cuộc đời nhiều hơn văn thơ. Trong sự nghiệp chung của Bác văn thơ chỉ là chuyện phụ.
Trong cuộc sống nghèo nàn ấy, Bác đã tìm đủ đề tài cho hơn một trăm bài thơ. Cơ hồ như đối với Bác chuyện gì cũng thành thơ.Chuyện núi non trăng hoa thành thơ mà chuyện dưa cà mắm muối cũng thành thơ. Bác làm thơ vì một cái răng, một cái gậy, kể cả những chuyện rất ít nên thơ cũng thành thơ. Cho nên khi Bác nói trong thơ nên có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng.”Không phải chỉ nói chuyện thép và giọng thép mới là có tinh thần thép”. Trong thơ văn cũng như trong cuộc đời cái điều quan trọng nhất vẫn là cái thực chất của con người Nhật ký trong tù ít có những lời hô to nói lớn:
“Giọng của người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước”
(Sáng tháng năm)
Bác cứ nhỏ nhẹ, cứ hồn nhiên mà toàn bộ tập thơ toát lên một tinh thần thép, tinh thần của một anh hùng bất khuất, luôn luôn vững bước tiến lên, bền gan chiến đấu.
Sống trong tù lúc nào Bác cũng thể hiện được phong thái ung dung, bình tĩnh, phảng phất thơ văn của nhà nho xưa đầy khí tiết. Nhưng cái ung dung ngày trước có khi là cái ung dung của người quay lưng lại với cuộc đời: trả áo mũ về sống ẩn dật, hay bất chấp mọi nỗi thăng trầm của thế sự. Bác hoàn toàn không phải như vậy. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói:”Hồ Chủ tịch là hình ảnh của sức mạnh bình tĩnh không khiếp sợ, không hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào lưu của thế giới, với quy luật tiến hóa của lịch sử. Chính Bác cũng đã nói :
“Sự vật vẫn xoay đà định sẳn
Hết mưa là nắng ửng lên thôi”
(Trời hửng)
Nhật ký trong tù chúng ta tìm thấy một sức chịu đựng vô cùng mãnh liệt ở Bác. Nhà tù đã đày đọa thân thể Bác, chúng giải Bác đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác, tối ngủ chân bị cùm, đi thuyền thì bị treo giò
“Bốn tháng cơm không no
Bốn tháng đêm không ngủ
Bốn tháng không giặt giũ
Bốn tháng không thay quần áo”
Bị giam lâu, chân mềm như trùn, thế mà lúc ra tù, Bác tập leo núi ngay để chờ lúc băng núi rừng về nước. Ðó là cái gương cương nghị ở Bác.
Bài thơ “Bốn tháng rồi” đã tổng kết một chặng đường đấu tranh lâu dài, khốc liệt của Bác ơ trong tù. Chứng kiến những nổi đau khổ đè nặng lên con người Bác, huỷ hoại thân thể Bác chúng ta cảm thấy hết sức đau lòng và càng kính yêu Bác. Chúng ta cũng vô cùng sung sướng tự hào trước chiến thắng của tinh thần Bác, tinh thần của một chiến sỹ công sản vĩ đại đã bất chấp cả bạo lực của kẻ thù. Bằng sức mạnh của nghệ thuật, Người đã truyền cho chúng ta một bài học của một tâm hồn sáng chói, bất diệt:
“Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần “
(Bốn tháng rồi)
Nhờ có tinh thần thép mà mọi gian nguy, hiểm nạn Bác đều vượt qua. Nhờ có tinh thần thép mà mọi thiếu thồn về vật chất Bác đã đẩy lùi. Bác là tinh hoa của lịch sử, khí phách dân tộc, và tâm hồn thời đại.
3. Nghệ thuật tác phẩm “Nhật ký trong tù “
a. Nhật ký trong tù đẹp một vẻ đẹp giản dị
Theo ý Xuân Diệu: “Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và rất khó. Dễî là dễ hiểu, giản dị, gần gũi với mọi người, các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thông cảm. Nhưng nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức thì chưa thấy hết các tinh tuý ở bên trong thơ, cho nên nói là rất khó”. Xuân Diệu viết tiếp:”Nếu ai đọc cứ quen theo thị hiếu thông thường, thích lời thơ phải hoa mỹ như cô gái đeo nhiều nữ trang, thích vị thơ phải chua cay, ngọt…thì người ấy sẽ thấy thơ này bình thường quá. Phải ở trong cái không khí cao sáng của trí tuệ này, phải nối liền mạch với trái tim rất nhân đạo này thí mới nhận hết được cái chất thơ cao quý này. Người xưa nói:” Ðối diện đàm tâm” nghĩa là mặt nhìn mặt miệng không nói mà hai tâm hồn trò chuyện, như vậy là tinh vi lắm, là cái thứ im lặng rất cao đàm tâm được với nhau”. Ðọc Nhật ký trong tù cũng phải tế nhị như vậy. Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lò hun đúc của Lê Nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn Thiên Tường…
Nếu nói đến tínnh chất nhật ký, đây là ngòi bút của một phóng viên ghi nhanh và sắc. Các nét dù là nhỏ nhất trong đời thường cũng không qua mắt được tác giả: từ giờ giấc trong một ngày:
“Sớm dậy người người đua bắt rận “
“Hai giờ ngục mở thông hơi”
“Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm”
Ðến cảnh đun nấu, mỗi người tù tự tìm cách cải thiện: “Hỏa lò ai cũng có riêng nồi”
Từ những lệ tục hủ lậu:
“Lệ thường tù mới đến
Phải nằm cạnh cầu tiêu”
(Quá trưa)
Ðến những thói ăn người trắn trợn.
“Hút thuốc nơi này cấm gắt gao
Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao”
(Cấm hút thuốc lá)
Gặp những nét ấy nếu một người có cái phương pháp suy nghĩ chỉ thiên về “vĩ đại”, “cao siêu” thì sẽ bỏ đi hết, làm gì có Nhật ký trong tù nữa. Mất cái tính chất nhật ký thì chùm thơ cũng mất đi cái đặc tính của nó, cái hương vị của nó sẽ trở thành ra một chùm thơ khác.
b. Nghệ thuật trào phúng
Nhật ký trong tù ta tìm thấy nghệ thuật trào phúng, nụ cười trào phúng lúc thì đau đớn lúc thì chua xót “cái cùm” và sự đới nhiều khi đến kỳ lạ:
“Ðược cùm chân mới yên bề ngủ
Không được cùm chân biết ngủ đâu”
Có khi nụ cười gắn với lời tố cáo, như bài “cờ bạc” mở đầu trình bày sự việc rất điềm tỉnh
“Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai”
Ðột nhiên ngòi bút sắc, mạnh đánh kẻ thù bật ngã mà vẫn cứ mát mẻ:
“Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sau trước không vô quách chốn này”
Bác bị giải đi ba mươi huyện mười tám nhà lao, Bác đã quắc mắt hỏi tội bọn chúng:
“Phạm tội cái gì ? ta thử hỏi
Tội trung với nước, với dân à ?”
Giọng thơ trào phúng không đơn điệu vì nó theo sát tính phong phú của ý thơ. Mỗi bài thơ mỗi vẻ. Có bài đanh thép như một cái tát vào mặt quân thù như bài kể chuyện “Nộp tiền đèn” có bài lời thơ tựa hồ dửng dưng mà thực ra thì tràn đầy căn giận như bài “Ở Lai Tân”. Có bài xót xa chua chát:
“Biền biệt anh đi không trở lại
Buồng the, trơ trọi, thiếp ôm sầu
Quan trên sót nỗi em cô quạnh
Nên lại mời em tạm ở tù”
(Gia quyến người bị bắt lính)
Có bài thơ như một bài nói đùa về ghẻ lở “Ði Nam Ninh “, “Dây trói”, mỗi bài là một tiếng cười như để lấy thêm sức mạnh.
Tóm lại, bằng bút pháp vừa tả thực vừa trào phúng, những bài thơ trong Nhật ký trong tù đã nêu lên được nỗi cơ cực của người tù nhân và tập thơ lên án chế độ nhà tù phi nhân loại của Tưởng Giới Thạch.
c. Nghệ thuật triết lý
Nghệ thuật thơ Bác là nghệ thuật những bài thơ triết lý sâu sắc như bài “Nửa đêm”
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Hay bài “Nghe tiếng giã gạo”, bài “Học đánh cờ”. Mỗi bài thơ nêu lên một thái độ sống, hay sự nhìn nhận đúng, hoặc đề ra một cách giải quyết về những định đề đã nêu ra.
Chúng ta quán triệt toàn bộ thơ Bác là tư tưởng của một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà Cách mạng vĩ đại. Thơ Bác không phải biểu hiện cuộc sống mà còn cải tạo cuộc sống, chỉ đạo cuộc sống. Ðó là tính Ðảng cộng sản lớn lao, đó chính là chất thép của thời đại.
Nói đến thơ Bác không thể không nói đến nghệ thuật. Vì thơ Bác là thơ của tâm hồn, thơ của tình cảm, thơ của tư tưởng, thơ của hành động, Bác đã sử dụng không biết bao nhiêu phương tiện biểu hiện thật hết sức phong phú đa dạng, nhiều lúc tưởng như trái ngược nhau mà lại có một sự nhất quán lạ lùng đó là sự bình dị tuyệt vời không có ai có thể bắt chước được.
Trong những bài thơ của Bác bên cạnh những vấn đề rất lớn lao cao cả, Bác có thể nói đến những vấn đề nhỏ nhặt hàng ngày mà ít ai có thể nói đến trong thơ: ai có thể ngờ được bên cạnh câu thơ mang ý nghĩa lớn:
“Ðau khổ chi bằng mất tự do”
Lại một câu khác :
“Ðến buồn đi ỉa cũng không cho “
Thế mà câu thơ đọc lên không chổi, trái lại làm tăng thêm sức tàn ác, làm cho việc mất tự do, cái tự do tối thiểu của con người cũng không có, càng được nhấn mạnh.
Bác không từ chối một đề tài nào. Bác không từ chối một từ nào không dùng miễn là từ ấy dùng đúng chỗ, dùng đắt. Bác đem rất nhiều những từ dùng hàng ngày vào trong thơ mà những từ ấy không làm cho thơ Bác tầm thường đi. Trái lại câu thơ của Bác càng sinh động, càng thực, càng xúc động lòng người.
Bác không từ chối cách nói từ ẩn dụ. tùì cứng” Ngày ngày no rượu thịt”
Tù mềm “Nước mắt bọt mồm tuôn”
Lối chơi chữ của Bác trong bài “Ðêm ngủ ở Long tuyền”
“Ðôi ngựa” ngày đi chẳng nghỉ chân
Ðêm “gà năm vị lại thường ăn”
“Ðôi ngựa” hai chân đi; “Gà năm vị” khi ngủ hai chân phải bắt chéo lại như chéo chân gà trong mâm cỗ tiệc.
Hay là cách nói tượng trưng ước lệ, chiết tự, nói nhại đến cách nói trực tiếp, cách nói hiện thực: rất thực, rất thẳng, rất sâu
Trong thơ Bác các yếu tố quan hệ rất hài hòa với nhau: tự sự và trữ tình, lãng mạng và hiện thực, cổ động và giáo dục, phản ánh và triết lý… đã kết hợp với nhau một cách chặt chẽ một cách nghệ thuật.
Trong Nhật ký trong tù, Bác thích dùng lối đối chọi giữa các mặt đối lập, tạo nên một sự châm biếm có khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt nhưng cuối cùng gây một nụ cười sâu sắc.
“Ta thì người dắt, lợn người khiên”
“Uốn để pha trà đừng rửa mặt”
“Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội”
“Trong tù đánh bạc được công khai”
Sự đối lập ấy tạo nên một sự buồn cười. Bài thơ nói đến đau khổ mà vẫn trào lộng. Ðọc thơ Bác chúng ta luôn luôn gặp một nụ cười độ lượng và tế nhị gay gắt mà thấm thía, một nụ cười riêng của Bác.
Chúng ta đã nói sự bình dị tuyệt diệu trong thơ Bác. Sự bình dị tuyệt diệu đó bắt nguồn từ con người của Bác, từ cuộc sống hàng ngày của Bác. Bình dị mà không tầm thường, giản dị mà không đơn giản. Bác nhìn cuộc sống từ nhiều mặt đối lập của nó, nhìn hiện tại mà hướng về tương lai, coi trọng tư tưởng mà rất chú trọng đến nghệ thuật.
V. KẾT LUẬN:
Tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng chữ Hán nhưng về mặt nội dung và cả về mặt phong cách nghệ thuật rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt nam đậm đà tính dân tộc. “một tác phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc phầm chất đạo đức Cách mạng cho tất cả chúng ta ngày nay”.(Lời nói đầu khi xuất bản cuốn Nhật ký trong tù của Viện văn học ). Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm xúc, những suy nghĩ , những băn khoăn của một con người cộng sản vĩ đại trong một hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta có cái may mắn được nghe những lời tâm sự của một vị lãnh tụ kính yêu vì thế tấm gương đạo đức cao cả của Người đối với ta vô cùng gần gũi. Tôi muốn nhắc lại ý thơ của Hoàng Trung Thông trong bài “đọc thơ Bác”
“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Aïnh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình “
(Đã chỉnh sửa từ nguồn Internet)
DienDan.Edu.Vn Cám ơn bạn đã quan tâm và rất vui vì bài viết đã đem lại thông tin hữu ích cho bạn.DienDan.Edu.Vn! là một website với tiêu chí chia sẻ thông tin,... Bạn có thể nhận xét, bổ sung hay yêu cầu hướng dẫn liên quan đến bài viết. Vậy nên đề nghị các bạn cũng không quảng cáo trong comment này ngoại trừ trong chính phần tên của bạn.Cám ơn.